Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Chậm Phát Triển Trí Tuệ

05/08/200500:00:00(Xem: 5959)
Ngày 5 và 6 tháng 10 năm 2004, nhiều nhân vật liên hệ tới vấn đề Chậm Phát Triển Trí Tuệ đã họp tại Montreal để thảo luận và công bố một Tuyên Ngôn về tình trạng Tàn Tật Trí Tuệ. Tham dự viên gồm có người chậm trí và gia đình, các giới chức y tế, giáo dục, luật pháp, đại diện nhiều quốc gia. Tuyên ngôn nhận định rằng những cá nhân bất hạnh này thường không được tham dự vào các quyết định về quyền làm người và chăm sóc sức khỏe của họ; rằng họ sanh ra với đầy đủ quyền hạn và nhân phẩm như mọi công dân; rằng mọi quốc gia có bổn phận phải bảo vệ họ chống lại sự kỳ thị, lạm dụng, khai thác, đối xử tàn tệ, trừng phạt quá đáng và lơ là chăm sóc y tế.
Sở dĩ có nhắn nhủ là tại nhiều quốc gia, với văn hóa đa dạng, đã nhìn lớp người bất hạnh đó dưới con mắt khác nhau; đã đặt nhẹ quyền hạn của họ và sự chăm sóc đã không được xứng đáng, chu đáo. Có nơi, nhiều em bị đưa vào các trại tập trung, đối xử như thành phần không lương thiện hoặc lãnh án nghiêm khắc khi phạm pháp. Chỉ vì các em không được phát triển bình thường như đồng niên may mắn khác và không phải do lỗi từ các em. Ngay tại nước Mỹ, từ năm 1977 tới 2002, đã có 40 em bất hạnh bị tử hình vì các tội phạm khác nhau. Và mãi tới tháng 6 năm 2002, sau nhiều kêu gọi quốc tế, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ mới phán quyết rằng chấm dứt sự sống của người bị Châm Trí Tuệ là vi phạm hiến pháp.
Lang tôi xin cùng quý thân hữu tìm hiểu thêm về những người có khó khăn phát triển khả năng trí tuệ này. Vì trong đồng hương chúng ta cũng không ít gia đình đang phải đối phó với vấn đề.
Định nghĩa
Chậm Trí Mental Retardation là chữ dùng để chỉ sự khiếm khuyết phát triển trí não xẩy ra ở trẻ em dưới 18 tuổi. Đây là một rối loạn rất thường thấy ở mọi nơi trên thế giới, trong bất kỳ từng lớp xã hội nào. Các em có một số giới hạn về chức năng trí tuệ và về các khả năng khác như là đối thoại, tự chăm sóc, và hành xử xã hội. Những giới hạn này khiến đứa trẻ khó học hỏi và chậm mở mang kiến thức hơn các trẻ em bình thường. Các em cần nhiều thời gian hơn để học nói, tập đi đứng và học cách thức tự chăm sóc trong các nhu cầu hàng ngày như ăn uống, tắm rửa, mặc quần áo. Một số em không thu lượm được vài môn học căn bản.
Chậm trí thấy trong tỷ lệ từ 2.5 tới 3% dân số. Bên Mỹ có tới gần 7 triệu trẻ bị khuyết tật này và thường được phát hiện vào tuổi tới trường, khi mà khó khăn học hỏi và hành vi trở nên rõ ràng.
Chậm Trí được coi như một tàn tật (disability), thiếu khả năng nào đó, hơn là một bệnh (disease); không là bệnh tâm thần như rối loạn hoang tưởng, trầm cảm. Không có điều trị dứt được rối loạn nhưng với các hỗ trợ, giáo dục, hướng dẫn thích đáng, đa số các em có thể học hỏi để thực thi nhiều sự việc liên can tới đời sống.
Nguyên nhân
Có cả trăm nguy cơ đưa tới chậm trí nhưng 60% trường hợp nguyên nhân chưa được xác định. Sau đây là một số nguy cơ thường thấy.
1- Nguyên nhân di truyền.
Trong trường hợp này, di thể bất bình thường từ cha mẹ truyền sang cho con cái và gây ra khuyết tật. Rối loạn di truyền thông thường nhất và được biết nhất là Hội Chứng Down mà trước đây gọi là Mongolism với nhiễm thể 21 bất bình thường; rồi đến khiếm khuyết nhiễm thể giống tính X; các hội chứng “tiếng kêu con mèo” Cri du Chat, Turner, Klinefelter ..
2-Bất bình thường trong khi có thai.
Thai nhi không phát triển bình thường trong thời gian còn ở trong bụng mẹ. Có thể là do sự phân bào bị rối loạn. Hoặc khi người mẹ ghiền rượu trong ba tháng đầu của thai nghén; mẹ mắc bệnh nhiễm (rubella, cytomegalovirus); dưới tác dụng của dược phẩm, hóa chất, phóng xạ; mẹ bị cao huyết áp, suy dinh dưỡng. Mẹ có thai mà suy dinh dưỡng cộng với sự sinh sống trong môi trường kém hỗ trợ có thể là nguy cơ chậm trí thường thấy nhất trên thế giới.
3-Khó khăn khi sanh đẻ.
Sanh thiếu tháng, xuất huyết, không đủ dưỡng khí, chấn thương não trong khi sanh.
4- Nguyên nhân sau khi sanh .
Não bị nhiễm vi khuẩn, virus, hóa chất ; suy dinh dưỡng trầm trọng, kém chăm sóc y tế, tiếp cận chất độc như chì, thủy ngân trong thực phẩm (cá). Trẻ sơ sinh bị bệnh cường tuyến giáp, ho gà, thủy đậu, ban sởi mà không được điều trị chu đáo cũng là những nguy cơ của chậm trí.
5- Yếu tố tâm lý xã hội.
Trẻ em lớn lên trong khung cảnh không có thương yêu tình người, thiếu kích thích diễn tả ngôn ngữ, cảm xúc, thính thị giác cũng thường chậm trễ về trau dồi kiến thức, hành vi xử thế.
Dấu hiệu và triệu chứng.
Dấu hiệu chính là thương số trí tuệ IQ thấp cộng với sự giới hạn trong khả năng giao tế xã hội, ngôn ngữ, tự chăm sóc. Các em cũng có thể bị kinh phong hoặc vài vấn đề tâm thần, hành vi bất bình thường. Chẳng hạn lớn lên các em có thể rơi vào tâm trạng buồn phiền nếu bạn học xa lánh hoặc cảm thấy bị mọi người coi như kém khả năng và không giống ai.
Nhiều em có những hành đông phá phách, hung bạo, không tự chủ được trước một bất bình nhỏ. Lý do là các em có rối loạn trí não nên không học cách hành xử, suy luận như trẻ em bình thường. Hành động này gia tăng khi các em sống trong các trung tâm thiếu nhân viên có kinh nghiệm chăm sóc, hướng dẫn. Vì dưới sự hướng dẫn, bận bịu với sinh họat và một chút kỷ luật, các em sẽ khá hơn. Có nhiều trường hợp khi ở trung tâm, các em có hạnh kiểm tốt, nhưng về nhà, bố mẹ hơi chiều chuộng buông thả là các em lại đập phá, gây gổ, không tuân lời.
Trẻ em chậm trí có một số dấu hiệu như:
a-Chậm trễ trong việc tập nẫy, ngồi, bò và đi đứng;
b-Biết nói trễ hoặc khó khăn khi nói;
c-Khó nhớ sự việc;
d-Kém hiểu biết quy luật xã hội căn bản;
e-Không ý thức được hậu quả về các hành vi của mình;
f-Khó khăn thực thi công việc thông thường như tự bón ăn, vệ sinh cá nhân đại tiểu tiện;
g-Khó khăn suy nghĩ hợp tình hợp lý;
h-Quá năng động, kém tập trung, hung giữ, chống đối, tự gây thương tích cơ thể;
i-Tâm trạng lo âu, trầm cảm, rối loạn giấc ngủ.
Chẩn Đoán.
Ngoài kết quả thử nghiệm sinh hóa học, chụp hình quang tuyến, não điện đồ, phân tích nhiễm sắc thể, việc chẩn đoán được dựa trên hai điểm căn bản:
1-Khả năng trí não em bé trong việc học hiểu, suy nghĩ, giải quyết vấn đề và giải thích ý nghĩa các ngôn từ. Đó là cách đo thương số trí tuệ IQ. IQ trung bình là 100; thấp từ 70- 75 thì được coi như dưới mức trung bình.
2-Khả năng để sống một cách độc lập. Về việc tự chăm sóc, thì ước lượng coi xem các em có thể làm được những gì, so sánh với các em bình thường. Chẳng hạn: các em có thể học để biết cách mặc quần áo, tắm rửa, đi vệ sinh, ăn uống; học nói chuyện với người khác bằng ngôn ngữ, hiều điều người khác nói và trả lời rõ ràng; cách cư xử với người chung quanh, với bố mẹ anh chị em.
Các em sẽ được khám sức khỏe tổng quát, hỏi y lý người mẹ và con; được đo IQ để uớc lượng khả năng học hỏi và chức năng trí tuệ. Có nhiều trắc nghiệm trí tuệ đang được áp dụng. Bên Mỹ, ngân sách liên bang đài thọ chi phí các trắc nghiệm này cũng như sự điều trị, học hành, huấn luyện kỹ năng của các em. Thân nhân chăm sóc các em cũng được hưởng phụ cấp sinh sống.

Phân loại.
Chậm trí được chia ra làm bốn cấp:
1-Chậm trí nhẹ (Mild MR). Khoảng 85% các em ở loại này. IQ của các em là từ 52-68. các em có thể hoàn thành học vấn tới lớp 6. Lớn lên, các em có thể tự lo tự lập với sự hỗ trợ của gia đình, cộng đồng.
2-Chậm trí vừa phải (Moderate MR) với hoảng 10%. IQ các em từ 36-51. Các em có thể thực hiện sự tự chăm sóc với sự hướng dẫn vừa phải; học cách đối thoại, giao tế và sống tại các trung tâm cộng đồng với sự giám sát trông nom.
3-Chậm trí nặng (Severe MR) khoảng từ 2-3% với IQ từ 20-35. Các em có thể sống tại các nhà tập thể group home có giám sát.
4- Chậm trí rất nặng với tỷ lệ từ 1-2% và IQ dưới 20. Thường thường các em bị tổn thương thần kinh và cần sự theo dõi, giúp đỡ thường xuyên.
Tương lai.
Theo thống kê, 87% các em chậm trí chỉ bị ảnh hưởng phần nào về khả năng học hiểu các kiến thức cũng như khả năng mới. Nhiều em khi lớn lên có thể sống gần như bình thường.
Khoảng 13% còn lại với thương số trí tuệ dưới 50 thì có nhiều khó khăn ở trường, tại nhà cũng như với xã hội. Với các em này, sự hỗ trợ cần tăng gia và lâu dài . Với sự giúp đỡ tận tình, các em có thể sống tương đối thỏa đáng.
Các em bị hội chứng Down có thể bị tổn thương não giống như trong bệnh Alzheimer và nhiều trường hợp nặng sẽ có các dấu hiệu của bệnh sa sút trí tuệ này.
Chậm Trí Tuệ không là yếu tố đưa tới mệnh yểu. Tuy nhiên khi có suy giảm trí tuệ trầm trọng thì tuổi thọ các em thường thấp vì nguyên do gây bệnh hoặc biến chứng như kinh phong, nhiểm khuẩn hô hấp. Một số em có thể bị rối loạn thần kinh, trầm cảm, kém tập trung, rối loạn hành vi.
Phòng ngừa
Bệnh nhiễm có thể đưa tới Chậm Trí như ban sởi rubella cần được chích ngừa.
Thử nghiệm ngay sau khi sanh để tìm ra các bệnh như cường tuyến giáp, Phenylketonuria (không sử dụng được amino acid phenylamine ), thử nghiệm sàng lọc gene bất thường, siêu âm cũng giúp dễ dàng điều trị, tránh gây chậm trí.
Các bà mẹ cũng cần được hướng dẫn để tránh các nguy cơ có thể gây chậm trí cho con như uống nhiều rượu, kém dinh dưỡng, tác dụng bất lợi từ môi trường. Mỗi quốc gia cần có chương trình chống lại suy dinh dưỡng của mẹ có thai nhất là vào thời điểm tăng trưởng não bộ, phát triển trí tuệ của trẻ em.
Điều trị
Mục đích chính yếu của điều trị là giúp các em phát triển tối đa các khả năng của mình. Các chương trình giáo dục và huấn luyện đặc biệt có thể bắt đầu ngay từ lúc còn bé mà mục đích là giúp các em hành động càng bình thường càng tốt.
Tâm lý trị liệu, hướng dẫn hành vi nhằm giảm thiểu mặc cảm vô dụng, hành động ngoại ý cũng cần được áp dụng để hỗ trợ cho dược phẩm. Cần có thêm các chương trình ban ngày để các em tới tiếp nhận huấn luyện căn bản các dịch vụ đời sống thường nhật. Việc dậy kỹ năng nghề nghiệp phải được cung cấp để giúp các em học vài nghề giản dị. Các chương trình cố vấn gia đình cũng giúp thân nhân và các em học hỏi trao đổi hỗ trợ ở nhà.
Trẻ em Chậm Trí mà mang thêm các dấu hiệu bệnh tâm thần có thể được điều trị với thuốc chống trầm cảm, chống rối loạn suy nghĩ, phán xét cũng như khi có hành vi phá phách, bất tuân.
Quyền hạn của trẻ em bị chậm trí
Các em có đầy đủ quyền hạn của một công dân như lập gia đình, sở hữu căn nhà hoặc lái xe nếu các em thi đỗ bằng lái xe.
Dưới các điều luật của liên bang, các em không bị đưa vào các lớp học đặc biệt. Các em cần được trắc nghiệm coi trình độ học vấn nào thích hợp với mỗi em. Một số được sếp vào các lớp đặc biệt với khiếm khuyết học vấn; một số khác được đưa vào lớp bình thường với sự giúp đỡ riêng.
Bên Mỹ có 30 tiểu bang giới hạn hoặc cấm sự kết hôn giữa người chậm trí, nhưng các luật này ít khi được áp dụng. Đôi khi gia đình đặt vấn đề trước pháp luật vì sợ có sự lạm dụng người bị khiếm khuyết khả năng học hỏi.
Vấn đề học hành.
Các em có thể học hành tốt nhưng cần giúp đỡ cho từng cá nhân.
Cho tới tuổi lên ba, giáo viên sẽ ngồi xuống cùng cha mẹ để hoạch định chương trình riêng cho mỗi em; coi xem nhu cầu của em là gì rồi giúp cha mẹ hiểu biết nhu cầu đó và cách thức dậy con trẻ.
Tới tuổi đi học, có chương trình dành riên cho các em. Nhân viên sẽ thảo luận với cha mẹ về nhu cầu học hỏi, điều gì cần làm để có sự liên tục giữa học đường và gia đình. Các em cần học hỏi một số kỹ năng như:
a-Đối thoại với người khác;
b-Tự chăm sóc về tắm rửa, ăn uống, thay quần áo, đánh răng, đi vệ sinh;
c-Học hiểu kiến thức tổng quát về sức khỏe và an toàn cá nhân căn bản;
d-Giúp cha mẹ các công việc ở nhà như quét nhà, rửa chén bát, sắp bàn;
e-Tập giao tế xã hội, hiểu quy luật thông thường;
f-Đọc, viết và làm bài tính giản dị;
g-Khi lớn lên thì dậy các em vài kiến thức nghề nghiệp đơn giản.
Nhiệm vụ của cha mẹ.
Để giúp đỡ con em châm trí, cha mẹ cần:
a-Có hiểu biết về vấn đề chậm trí, về nguyên nhân, hậu quả, khả năng con trẻ;
b-Khuyến khích con trẻ tự lo một số công việc căn bản như mặc quần áo, ăn uống, vệ sinh;
c-Giúp con trẻ để chúng dễ dàng thực hiện công việc được giao phó. Chẳng hạn khi dọn cơm, thì nói cho hay cần bao nhiêu bát, bao nhiêu đũa; đặt mỗi thứ vào vị trí để con trẻ bắt chước. Khen thưởng khi con làm được; làm lại cho con làm theo;
d-Hỏi con đã làm gì ở trường rồi cùng làm lại với con;
e-Cho con tham dự vào các sinh hoạt ngoài đời như cắm trại, thể thao...
f-Liên lạc với cha mẹ các em có cùng vấn đề để chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc cũng như để tương trợ lẫn nhau
g-Thường xuyên gặp gỡ với nhân viên nhà trường để tìm hiểu, thảo luận cách thức hỗ trợ con
Nhiệm vụ nhân viên nhà trường.
Nhân viên giảng huấn cũng nên có một số sửa soạn để hỗ trợ dậy dỗ trẻ em chậm trí.
a-Tìm hiểu thêm về chậm trí, nguyên nhân, hậu quả, cách hướng dẫn;
b-Tìm hiểu coi khả năng của học viên như thế nào, các em thích làm gì, có khả năng về vấn đề gì rồi tập trung sự giúp đỡ để các em khá hơn.
c-Sử dụng các Chương Trình Giáo Dục Cá Nhân;
d-Với học viên, mình nên cụ thể rõ ràng trong việc hướng dẫn. Chẳng hạn thực thi điều mình muốn hướng dẫn cho học viên thay vì chỉ dùng lời nói. Cho coi hình khi trình bầy về một đồ vật hay sự việc gì để các em thấy tận mắt.
e-Chia hướng dẫn thành từng thành phần nhỏ, ngắn để các em dễ thu nhận. Hướng dẫn từng giai đoạn rồi yêu cầu học viên nhắc và làm lại.
f-Khích lệ ngay sau khi các em làm xong công việc.
g-Dậy các em các căn bản của đời sống như nói chuyện, quan hệ, sinh hoạt.
h-Hợp tác với phụ huynh và các giáo viên khác để cải thiện giúp đỡ ngõ hầu đáp ứng nhu cầu của học viên
Kết luận
Chậm Phát Triển Trí Tuệ là rủi ro ngoại ý của một số trẻ em. Các em cũng là con cháu trong gia đình, công dân trong quốc gia xã hội. Các em cần được tình thương, được tôn trọng như một con người, được cung cấp đầy đủ các phương tiện y tế, xã hội, giáo dục như mọi người khác. Như tuyên ngôn Montreal đã xác định.
Bác sĩ Nguyễn Ý- Đức
Texas- Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.