Hôm nay,  

M Ộ T C H U Y Ệ N T Ì N H

9/5/202215:24:00(View: 2789)
minh hoa truyen DuongNghiemMau-1
minh họa Đinh Cường


Ra khỏi cái toa đen nồng nặc mùi nước giải và mùi thuốc sát trùng, khách ngoái nhìn cái đầu máy đang xì xì phả hơi nước:
- Thế là kết thúc, kết thúc thật rồi, một đoạn đời khốn nạn của ta.
Anh lững thững bước vào ga. Trên sàn rộng không còn một chỗ trống. Tiếng ngáy đủ mọi cung bậc bay lên vòm trần.
- Mà lạ, sao mình không cảm thấy vui, cũng chẳng thấy buồn?
Anh vặn người. Mấy đốt sống kêu lục cục. Lúc lắc nhiều giờ trên tàu, anh mệt, anh muốn nằm.
Ngả lưng giữa đống người kia ư? Quang cảnh trước mắt làm anh phát gớm. Chặc lưỡi, anh len ra ngoài.
– Mình đi đâu bây giờ? Không thể đến nhà ai vào giờ khuya khoắt này. Mà liệu còn có ai chờ đợi mình?
Đêm hè. Gió mát. Mấy con chuột cống béo núc chạy loăng quăng trong rãnh hè.
- Này, lượn gì mà lượn mãi. Không chán à?
Có tiếng gọi. Tiếng con gái.
- Đi không?
Tiếng gọi hướng về anh. Ngoái lại, anh thấy một người đứng tựa lưng vào tường – một cô gái trẻ, thanh mảnh, cặp vú nhỏ nhú lên dưới lớp vải mỏng màu xanh của kiểu áo thời thượng có tên “thắt cổ mổ bụng”.
- Đi đâu cơ? – anh không hỏi cô gái, anh tự hỏi - Tôi chẳng có đâu để mà đi, cô ạ.
Cô gái dợm bước về phía anh:
- Sao lại chẳng có đâu để mà đi?
Anh cười. Cái cười vô nghĩa:
- Thật mà.
Cô nhoẻn cười:
- Thì đi với em.
- Cô bảo sao?
- Ông anh chờ tàu hở? Hai tiếng nữa mới có tàu xuôi, còn khối thời giờ.
- Không. Tôi không chờ tàu. Đây là ga cuối rồi.
- Ông anh không về nhà?
- Không.
- Sao thế?
Anh lúng túng.
- Tôi vừa ra tù, cô ạ.
- Thì đi giải đen với em. Rẻ thôi. Nhé?
Cô túm tay áo anh.
- Không được, cô ạ.
- Sao lại không được?
- Tôi không có xu nào trong túi.
- Thế thì lượn làm gì?
Anh không tìm được câu trả lời. Anh lặng thinh.
Dưới ánh sáng nhợt nhạt của ngọn đèn đường bị lũ thiêu thân quây thành vồng, anh ngồi trước cửa ga, tựa lưng vào bức tường đá.
Cô gái đến, ngồi xuống bên anh.
- Anh không muốn về nhà?
- Không. Tôi chờ trời sáng.
- Không về nhà thì anh đi đâu? – cô gái nhắc lại.
- Tôi đang nghĩ.
- Nghĩ thì có ra được chỗ để về không?
- Rồi tôi sẽ nghĩ ra.
Mười một năm trước anh có nó, có cái gọi là nhà - một căn phòng hẹp, trần thấp, bề bộn sách. Anh nhớ về nó một thời gian dài. Rồi quên bẵng. Mà nghĩ đến nó làm gì cơ chứ! Nó là cái nhà nước cấp cho anh. Rồi cái nhà nước ấy đưa anh đi tù. Cái phòng hết là của anh.
Hai người im lặng một lúc.
Cô gái nghiêng đầu quan sát anh:
- Khuya rồi.
- Dễ gần hai giờ.
- Ga có đồng hồ mà.
- Ờ nhỉ.
Cô gái nói:
- Hay là… thế này: ông anh về với em.
Anh thở dài:
- Tôi không có tiền, thật mà.
C6 đứng lên:
- Về với em. Không tiền nong gì hết. Em cũng có lúc như anh - chẳng biết đi đâu.
- Có tiện không?
- Đừng ngại.
Cô túm lấy tay áo anh, kéo đi.

2

Nhà của cô là chái hẹp một căn hẹp trong rất nhiều căn lúp xúp sát bên nhau. Một cái giường đơn, đúng hơn là một cái chõng. Chõng có đệm, có chăn.
Anh vứt tay nải xuống đất, nhìn cô đánh diêm châm ngọn đèn hoa kỳ. Nó lép bép mãi, không chịu bén lửa.
- Cảm ơn cô.
- Anh không có nhà thì đây là nhà
- Tôi làm phiền cô quá.
Cô sửa lại vạt chăn lơi xuống đất:
- Em cũng đã trải qua cảnh ấy.
- Thật sao?
- Không phải một lần đâu. Anh cứ nằm đây, nghỉ đi.
- Thế cô nằm đâu?
- Chõng rộng, đủ chỗ cho hai người.

3

Câu chuyện này tôi nghe ở bạn tôi. Lâu lắm rồi.
Tôi muốn kể lại trong hình thức một truyện ngắn. Với tôi, nó thú vị, nhưng viết mãi không thành. Dưới gầm bàn đầy những trang giấy vo viên. Trong tay các nhà văn câu chuyện này chỉ một loáng là xong. Tôi thì không thể. Tôi không phải nhà văn. Nhưng không viết nó ra thì tiếc.
- Ông kể tiếp đi – tôi nằn nì - Tôi muốn nghe.
- Ờ, thì kể. Nhưng chuyện khó tin đấy.
- Tôi tin.
Bạn tôi ngần ngừ:
- Nó là chuyện thật. Tôi nằm xuống cái chõng ấy và thiếp đi ngay lập tức. Giữa đêm thức giấc, tôi thấy có người nằm bên. Là cô gái ấy.
Tôi cười:
- Tôi hình dung được chuyện gì ắt phải xảy ra.
Anh nghiêm mặt:
- Bậy nào. Tôi biết, ông, và nhiều người nữa, chắc sẽ nghĩ y như ông. Rằng tôi sẽ vồ lấy cô ấy, ngấu nghiến làm cái việc con vật đực thèm khát sẽ làm. Không, hoàn toàn không phải thế. Đời tù quá dài đã làm tôi quên chuyện ấy. Nói cho đúng, tôi không nhớ tới nó. Khát vọng tự do đã che lấp mọi cảm giác.
Anh lặng đi trong hồi tưởng.
- Đó là một đêm cực kỳ hạnh phúc trong đời người. Nó chỉ xảy ra một lần, nếu anh may mắn gặp nó. Nó giống một giấc mơ. Hơi thở đều đều của người con gái không quen biết gối đầu trên tay tôi. Nó mới thơm làm sao, mới ấm áp làm sao, mới tinh khiết làm sao. Cái hương ấy chẳng bao giờ tôi quên được. Nó giống hương hoa đồng nội ở những phút hiếm hoi khi con người cảm thấy mình với thiên nhiên là một.
Tôi nghe.
- Rồi sau đó?
- Cô gái giữ tôi ở lại – anh hồi tưởng - Tôi mệt rũ. Tôi ngủ ngay lập tức.
Sáng ra, cô bảo:
- Anh cứ ở lại đây. Nhìn anh, em tin anh. Anh là người ngay thật.
- Và anh ở lại? – tôi hỏi, với một chút ngạc nhiên.
Anh gật:
- Vâng. Anh không tin?
- Tôi tin.
- Một cơn sốt rét ác tính đã giữ tôi lại. Cô gái chạy đi mời bác sĩ. Ông ta đến, làm gì, tôi không biết. Tôi mê man. Khi cơn sốt lui, tôi hiểu: cô gái đã cứu mạng tôi. Mà bằng cái gì?
Tôi chờ anh nói tiếp.
Anh lẳng lặng hồi lâu. Rồi thở dài, rất dài:
- Bằng tiền đi khách, anh ạ. Có cái ơn nào lớn hơn ơn ấy không?
Những gì tôi biết về bạn mình không giống điều tôi biết. Anh có vợ là một nhạc công tam thập lục trong một dàn nhạc dân tộc, con một học giả danh tiếng. Không phải cô gái trong chuyện anh kể.
Khỏi bệnh, tôi nói với cô:
- Em là người tốt nhất với anh trong đời. Nếu em không chê anh thì anh xin được gá nghĩa cùng em.
- Cô ấy nói sao?
Cô ấy bảo:
- Không được đâu, anh ơi. Chúng ta không thể thành vợ chồng. Anh là trí thức, em biết. Trong lúc mê man, anh lảm nhảm bằng tiếng Tây. Em không thể làm vợ anh. Anh không thể có vợ là một con điếm.
Tôi hỏi tiếp:
- Rồi sao?
- Tôi bảo: anh cũng là kẻ dưới đáy. Ta có khác gì nhau.
- Không đâu – cô ấy nói - Anh khác, em khác. Dù cùng ở dưới đáy.
- Anh rồi cũng không thuyết phục được cô ấy?
- Tôi đã cố gắng, nhưng vô vọng.
- Anh bỏ đi?
Anh buồn bã lắc đầu:
- Chính cô ấy bỏ đi. Đi đâu, không biết. Tôi đã tìm. Không phải nhiều ngày, mà nhiều tháng. Rồi mọi chuyện rồi cũng qua, như cuộc đời vốn thế. Tôi không biết gì hơn. Trong đám cưới với nhà tôi bây giờ, tôi nhận được một bó hoa vô danh do một cậu bé mang tới.
- Là của cô ấy?
- Chắc chắn. Trong bó hoa có một mẩu giấy.
- Cô ấy viết?
- Không phải. Mẩu giấy ấy là của tôi, trong đó có mấy câu thơ viết vội.
- Thơ thế nào?
- Không ra gì. Không đáng để anh nghe. Điều làm tôi xúc động là cô đã giữ nó. Như một kỷ niệm về tôi. Nay cô ấy trả lại.

Chuyện này xảy ra với một nhà thơ, bạn tôi.
Tôi chỉ ghi lại chuyện anh kể. Không thêm. Không bớt.
Anh là nhà thơ không tăm tiếng. Tên anh không có trong danh bạ các nhà thơ hiện đại.
Nhưng trong tôi anh để lại một dấu vết không phai mờ.
Nó được tạc vào ký ức. Rõ nét. Như tạc trên đá.

Vũ Thư Hiên
1987

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nếu phân biệt về giới tính, số lượng và tác phẩm của những người viết “Nam” ngoài vòng đai trong Văn chương miền Nam thời chiến (1954-1975) có khá nhiều: Y Uyên, Lê Bá Lăng, Doãn Dân, Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Luân Hoán, Vũ Hữu Định, Phan Xuân Sinh, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương... Hầu như không có một người “Nữ” nào viết ngoài vòng đai cả. Có thật vậy không? Phải đợi đến tháng 10/2011, nghĩa là sau 40 năm từ khi sách được phát hành vào tháng 9/1971, khi trang blog Phay Van với cô chủ thật “đặc biệt” và nhóm bạn yêu thích văn chương mà tôi đã ghi lại trong “Hành trình của Cõi Đá Vàng” [1], thì tôi mới biết đến tên nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sâm. Trước năm 1975, trong chúng ta hầu như không mấy ai nghe nói tới tác phẩm “Cõi Đá Vàng” của bà, dù cho cuốn sách ấy được nhà An Tiêm, một trong những tên tuổi của miền Nam thời bấy giờ, xuất bản.
Ngày 11 tháng 9 năm nay 2021 đánh dấu 20 năm sau ngày nước Mỹ bị tấn công khủng bố kinh hoàng nhất trong lịch sử gần hai trăm rưởi năm lập quốc khi tổ chức khủng bố quốc tế al-Qaeda dùng máy bay dân sự chở đầy xăng và hành khách làm vũ khí lao vào các mục tiêu tấn công, gồm World Trade Center tại New York, Ngũ Giác Đài tại Thủ Đô Washington và một nơi nào đó nhưng đã bị những hành khách Mỹ yêu nước phản kháng một cách bi hùng trên chuyến bay United Flight 93 bị khủng bố cướp đã cất cánh từ Phi Trường Newark của New Jersey trên đường đến San Francisco đã lao xuống một nơi hoang dã tại Shanksville, Pennsylvania làm gần 3,000 người thiệt mạng. Cảnh tượng tòa tháp đôi World Trade Center tại Thành Phố New York, biểu tượng của trung tâm tài chánh phồn thịnh nhất thế giới, bị hai chiếc máy bay dân dự đâm thẳng vào với ngọn lửa đỏ rực bùng lên giữa nền trời xanh của một ngày cuối hạ, 11 tháng 9, và sau đó sụp đổ hoàn toàn thành bình địa đã trở thành hình ảnh kinh hoàng của thời đại khủng bố.
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật có di giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.” Phụng hành di giáo của đức Thế Tôn, các vị Trưởng lão A-la-hán đã thực hiện cuộc kiết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá, cùng hòa hiệp phúng tụng tất cả những điều đã được Phật giảng dạy trong suốt bốn mươi lăm giáo hóa; nền tảng của văn hiến Phật giáo mà về sau được gọi là Tam tạng được thành lập từ đó.
Hiểu được một người, tất yếu phải chí thành với người đó. Một bản dịch hay, người ta nói, vì dịch giả say mê nó, “ăn ngủ với nó.” Người thế gian với nhau, cao thấp có giới hạn, dù cao cho bằng Hy mã lạp sơn, vẫn có người leo lên đỉnh được. Vậy mà trong sự phiên dịch còn đòi hỏi tâm tình chí thành nơi người dịch. Huống hồ, dịch giả kinh Phật, tự đứng trung gian giữa Thánh và phàm, nếu không chí thành với lý tưởng, là sao hiểu được bằng tất cả tâm trí của mình những lời mình muốn dịch?
Giữa năm thứ hai tại Princeton, Fitzgerald về nhà tại St. Paul trong kỳ nghỉ Giáng Sinh. Tại bữa tiệc trượt tuyết mùa đông ở Summit Avenue, cậu Fitzgerald 19 tuổi đã gặp người đẹp 16 tuổi Chicago là Ginevra King và chàng đã yêu nàng say đắm. Đôi trai gái này đã bắt đầu mối quan hệ lãng mạn qua nhiều năm. Tình cảm sâu đậm với Ginevra đã khiến cho Fitzgerald viết vô số lá thư tình say đắm và nói rằng chàng sẽ trao cho cô cuộc đời còn lại của chàng. Cô đã trở thành mô hình văn học cho các nhân vật Isabelle Borgé trong cuốn tiểu thuyết “This Side of Paradise” và Daisy Buchanan trong cuốn “The Great Gatsby” cũng như nhiều nhân vật khác trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông. Vì cách biệt giai cấp giàu nghèo, cuối cùng cuộc tình của hai người đã chấm dứt vào năm 1917, nhưng chàng vẫn giữ đống thư tình mà không chịu đốt. Sau khi ông qua đời vào năm 1940, những lá thư tình này đã được gửi lại cho Ginevra giữ cho đến khi cô mất, theo Renata Stepanov trong bài viết “Family of Fitzgerald's
Tháng Tám chưa qua, hạ chưa hết. Thu còn xa lắc, lá chưa kịp chín vàng, mà ông đã rụng rơi. Nguyễn Mạnh Trinh, nhà thơ, nhà biên khảo và truyền thông đã lên đường, đã thong thả rong chơi về miền phương ngoại. (1949-2021). Xuất thân là một quân nhân thuộc binh chủng Không Quân, văn thơ của ông phản ảnh nhiều suy tư, thao thức về cuộc chiến. Ông yêu thi ca, làm thơ và viết rất nhiều bài nhận định trong những lãnh vực văn học nghệ thuật khác nhau. Ông cộng tác và viết thường xuyên cho các báo nhất là ở Úc, Canada và Hoa Kỳ.
Kịch của Lữ Kiều là những dấu hỏi lớn, những phân định một cách công bằng về công và tội, về Thiện và Ác, về ánh sáng và bóng tối. Không một sân khấu nào giữa thời buổi này dám dựng. Hãy dựng nên trong đầu ta, mệt thật đấy, đau thật đấy, nhưng chỉ một mình ta cùng sống và cùng chết với kịch, nói như Thánh Thán, không sướng sao? – Khuất Đẩu
Alex Haley sinh tại thành phố Ithaca, New York, vào ngày 11 tháng 8 năm 1921. Ông là con trai trưởng trong gia đình 4 anh em, gồm 3 trai và một gái, cùng cha khác mẹ. Haley sống với gia đình tại Henning, Tennessee, trước khi trở lại Ithaca lúc ông lên 5 tuổi. Cha của ông là Simon Haley, một giáo sư về canh nông tại Đại Học Alabama A&M, và mẹ của ông là Bertha George Haley, người đã lớn lên tại Henning. Gia đình ông có nhiều nguồn gốc Mandinka (bao gồm Senegal, Gambia, và Sierra Leone), gốc Phi Châu khác, bộ tộc Cherokee, Tô Cách Lan, và Tô Cách Lan-Ái Nhĩ Lan.
Chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau thì ngọt lịm! Có lẽ trên thế gian này không có tình yêu nào bao la vô tận và ấm áp vô cùng như tình mẹ. Cho dẫu những người con có già nua và hao gầy đến tuổi nào đi chăng nữa thì người mẹ vẫn yêu thương những đứa con của mình như thuở chúng còn măng non. Trên cõi đời này cũng chẳng có ngôi trường nào dạy cách làm sao để những người mẹ yêu thương con cái của mình. Nhưng tình yêu thương của người mẹ đối với con cái vẫn cứ tự nhiên mà có, bởi vì nó vốn ở trong trái tim, trong lòng dạ của người mẹ tuôn ra. Nó không ở ngoài chảy vào. Nó sinh ra và tồn tại với người làm mẹ. Bởi thế, không ai hỏi tại sao những người mẹ thương yêu con cái của họ bởi chắc chắn ai cũng tự có câu trả lời, ai cũng đã hiểu rất rõ rằng những người mẹ thương yêu con cái của họ bởi vì đó là con cái, là ruột thịt, là máu mủ của họ, như cách nói của người bình dân Việt Nam. Tất nhiên, trên đời này cũng có cha mẹ không thương yêu con.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.