Hôm nay,  

Thư Gởi Đức Phật

13/12/202018:01:00(Xem: 2451)

Ngày hôm nay, tháng này, năm hiện tại

Hôm nay con đang ở tại nơi đây và ngay lúc bây giờ, con viết lá thư này thành kính dâng lên đức Thế Tôn. Trước hết con đê đầu đảnh lễ Thế Tôn, đảnh lễ chư Phật ba đời mười phương cùng tất cả hiền thánh tăng. Không phải đến bây giờ con mới nhớ Phật để viết lá thư này, thật tình thì lúc nào con cũng nhớ Phật cả, tuy nhiên cũng có đôi khi con trốn Phật đi theo đám ma quân ngũ dục để làm những việc sai quấy hòng thỏa mãn cái tôi ích kỷ của mình. Đấy chính là lý do mà hôm nay con viết lá thư này, cứ mỗi lần theo đám ma quân ấy, làm việc gì đó trái với thanh tịnh, hiền thiện thì con laị sanh tâm sám hối. Khổ nỗi sám hối rồi một thời gian sau laị tái phạm nữa, quả thật cái đám giặc ngũ dục lục trần nó đầy mê hoặc và quyến rũ, trong lúc ấy thì bản lĩnh của con kém quá, thiện hữu tri thức thì không có mấy ai gần, thầy thì xa… Đôi lúc con cũng tập buông bỏ nhưng buông một thời gian là laị ôm vào, cứ như thế mà xà quần chẳng tiến bộ được bao nhiêu. Thâm tâm con nhiều lần ước mong dấn bước theo con đường mà năm xưa Thế Tôn đã đi, tiếc rằng cái giấc mơ đó không đủ mạnh để cưỡng nổi những ràng buộc của cuộc đời. 

 Kính lễ đức Thế Tôn, hình như người thế gian ai ai cũng dính chặt vào ngũ dục lục trần? chỉ có một ít người dõng mãnh tinh tấn mới buông được. Mà nào chỉ ngũ dục lục trần, những mối quan hệ giữa người với người cũng là một sự ràng buộc chặt chẽ và rối rắm: nào là yêu - ghét, Thương - hận, thân – sơ, ta - địch, ơn – oán…Những mối ràng buộc đầy phiền não và hệ lụy này nó trói con người ta laị với nhau, người với người “dính” nhau như những con cua bị những cái que của chúng bấu viú thành một chùm. Con người tự làm khổ mình, làm khổ lẫn nhau, cái khổ và sự ràng buộc cứ hết đời này sang đời khác. Chỉ có những kẻ vâng lời Như Lai, cắt ái từ thân, ly gia đoạn dục mới thoát khỏi những hệ lụy này. 

 Kính lễ đức Thế Tôn, trong giai đoạn chánh pháp và tượng pháp có nhiều thánh nhân và hiền nhân ra đời. Con người còn dung dị, tâm địa còn tương đối thanh tịnh nên việc học đạo dễ dàng hơn hôm nay. Thời đaị hôm nay là thời mạt pháp, tài sắc nó lẫy lừng kinh khủng lắm, truyền thông và mạng xã hội đang từng phút giây thúc đẩy, khuếch trương tối đa sự đam mê ngũ dục. Nó làm cho con người ta mê muội và chìm đắm trong vũng bùn ngũ dục ấy. Con người càng ngày càng tham lam, sân hận và si mê. Chủ nghĩa vật chất thúc đẩy con người sa vào cái vòng quay điên cuồng, tham muốn hưởng thụ, manh tâm tranh đoạt, tàn bạo ra tay chiếm hữu… Con người ngày hôm nay không còn một phút giây nào để ngồi xuống thở trong an lạc. Thế rồi đaị dịch xảy ra, toàn thế giới này hoảng sợ, người ta sợ đến độ không dám laị gần nhau, từ chối bắt tay, bịt mũi, bịt miệng, thậm chí còn tạo ra cái khiên che mặt mình. Mọi người nghi kỵ nhau, ai cũng nhìn người đối diện như một mối họa. Mọi hoạt động của xã hội loài người đình trệ, hàng chục triệu người nhiễm bệnh, hơn triệu rưỡi người đã chết, hậu quả thật dễ sợ! Nhưng thưa Thế Tôn, người ta thường nói “ Trong cái rủi có cái may”, nhà Phật cũng bảo “ Hoạ phúc xoay vần”, nhà Nho nói “ Họa trung hữu phúc”… Đaị dịch tuy đáng sợ, gây ra sự đình đốn và chết chóc nhưng nó cũng có mặt tốt. Nhờ đaị dịch mà thiên nhiên có cơ hội phục hồi sau một thời gian dài bị phá hủy bởi sự khai thác tàn hại của con người: đất đai hoang hoá, núi rừng cạo sạch, đồng ruộng, sông ngòi, biển cả… ô nhiễm nghiêm trọng bởi chất thải công nghiệp, rác nhựa, hoá chất. Khí hậu ấm lên do hậu quả nhà kiếng, băng hai cực trái đất tan, nhiều vùng đất có nguy cơ bị nhấn chìm. Muôn loài thú hoang bị tàn sát để ăn thịt, làm đồ mỹ nghệ, làm thuốc, thậm chí bị giết để làm thú vui tiêu khiển với cái mỹ từ thể thao săn bắn…

 Kính lễ đức Thế Tôn, dịch bệnh là một trong “ tam tai” mà Thế Tôn đã đề cập trong kinh điển, khi nghiệp sát đến cực điểm thì sẽ xảy ra chiến tranh, dịch bệnh, mất mùa đói kém. Thế giới hôm nay khoa học kỹ thuật phát triển cao độ, sản vật dư thừa, có thể không đến nỗi đói kém (tuy nhiên đói kém vẫn thường xảy ra nhưng  cục bộ ở một số địa phương nào đó, như ở châu Phi chẳng hạn) nhưng chiến tranh thì vẫn xảy ra và càng ngày mức độ tàn bạo hơn, chết chóc nhiều hơn, tàn phá kinh khủng hơn. Người ta có thể chỉ cần bấm một cái nút nhỏ xíu cũng có thể xoá sổ một thành phố như chơi, có thể giết cả triệu người trong phút chốc. Con người hôm nay với kỹ thuật tân tiến nó kinh khủng lắm, vừa giúp ích cho sự tiện lợi của đời sống nhưng cũng vừa có thể hủy hoại tất cả. Khoa học kỹ thuât tân tiến giúp cả thế giới liên kết và dính với nhau thành một hệ thống nhưng cũng có thể giết người trong chớp mắt, hủy diệt tất cả trong phút giây. Con người trong thế giới hiện đại hôm nay càng ngày càng tham lam vô độ, lửa sân hận ngút trời, sự si mê mờ mịt. Vật chất của cải, tài sản, tiền bạc…bây giờ nhiều hơn bất cứ giai đoạn nào của lịch sử loài người nhưng sự an lạc thì tỷ lệ nghịch, loạn động liên tục xảy ra, không nơi này thì nơi khác, không lúc này thì lúc khác, không với lý do này thì với lý do khác nhưng chung quy không ngoài việc tranh đoạt ngũ dục mà ra. Mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, đông hiếp ít… dù có biện minh với bất cứ lý do gì thì đó vẫn cứ là việc tranh đoạt với sự sai xử của lòng tham, lửa hận và lý trí mê mờ.

 Kính lễ đức Thế Tôn, chúng con quả là những đứa cùng tử, xa nguồn cội đã lâu, lang thang trong cát bụi, chìm đắm trong bùn lầy, khổ sở trong cuộc đời, quờ quạng tìm đường ra mà quên đi mình có hạt minh châu trong chéo áo. Có đôi khi tỉnh ra nhưng bản tánh hèn kém không dám tin mình có của qúy đáng giá nhường ấy, hoặc giả có tin nhưng cũng chưa dám xài đến, vẫn cứ ngày đêm tìm kiếm những thứ vặt vãnh ở bên ngoài. Những gã cùng tử như chúng con, tuy có biết chút ít  lý thuyết nhưng chưa thực hành được bao nhiêu. Sáu căn mê mờ, dính chặt vào sáu trần hư dối, để rồi sáu thức mê lầm. Tuy chúng con biết sắc là giả tạm, nó vốn là tứ đại hợp thành, nó là cái đãy da hôi thối nhưng mắt thấy sắc là bập vào ngay, vì thế mà đam mê chìm đắm. Từ đó mà thọ đủ thứ, tưởng ra bao nhiêu điều kỳ quặc, hành quấy quá và cuối cùng nạp hết vào trong tạng thức. Tham dục có bao giờ thoã mãn, vì không thoã mãn mà tái sanh, bởi vậy sanh tử chẳng bao giờ dừng dứt. Vì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý dính chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà khổ mãi, khổ hoài, khổ dài lâu, khổ bất tận…Chao ơi, những gã cùng tử còn mê muội đến bao giờ mới buông bỏ được đây? 

 Kính lễ đức Thế Tôn, trong số những gã cùng tử ấy cũng có một số tay lãng tử hay du tử thảng hoặc tỉnh ra, chỉ tiếc là bản lĩnh yếu ớt không đủ can đảm đi theo con đường mà Thế Tôn đã khai phá. Con thấy mình cũng có phần giống những tay du tử ấy, chỉ mon men bên lề, hoặc chỉ rón rén ngoài rìa, tuy có lúc cũng đặt được một chân lên con đường ấy nhưng chân kia dính chặt trong dòng đời, thật đáng thương mà cũng đáng trách lắm thay! Những tay du tử ấy có đôi khi vâng lời Như Lai nhưng rồi đắm đuối mắt biếc trong đời nên chẳng buông bỏ xuống để mà dấn thân. Có một điều khả dĩ có thể an ủi chút ít là những tay du tử ấy tuy là cùng tử nhưng phần nhiều đều là hiếu tử và khá thanh cao. Giá mà những tay du tử ấy buông đặng, vâng lời Như Lai mà dõng mãnh tinh tấn thì sẽ tiến xa bay cao, tiếc thay, tiếc lắm thay! 

 Kính lễ đức Thế Tôn, chúng con là những gã cùng tử trong đạo, những tay du tử ngoài đời. Đời không xong mà đạo cũng chẳng tròn, dang dở giữa hai bờ, tiến thoái lừng khừng, buông nắm dùng dằng, bỏ lấy do dự…

 Kính lễ đức Thế Tôn, hôm nay, bây giờ và ở đây. Con viết bức thư này kính dâng lên Thế Tôn. Con mến mộ và kính phục đức Thế Tôn vô cùng, từ một ông hoàng tột  đỉnh cao sang quyền quý, tài sắc đủ cả, thế gian được mấy người? Vậy mà Thế Tôn buông một cách dứt khoát như vứt chiếc dép rách để xuất gia và khai phá ra con đường giải thoát. Con đê đầu đảnh lễ đức Thế Tôn, tạ thâm ân đức Thế Tôn. Ngày nay giáo pháp của đức Thế Tôn truyền khắp thiên hạ, nếu ngày xưa chỉ khu trú ở châu Á thì bây giờ có mặt từ đông sang tây: Á, Âu, Mỹ, Úc, Phi. Hôm nay có rất nhiều người da trắng và một số ít người da đen, người Mễ Tây Cơ đã buông bỏ tất cả để đi theo con đường mà đức Thế Tôn đã khai phá. Họ thực sự chỉ tam y nhất bát mà hành đạo, họ đang tán dương đức Thế Tôn, làm rạng rỡ giáo pháp của Thế Tôn. Họ không còn là những cùng tử hay du tử nữa. Họ thật sự là những Thích tử chân chính và tinh tấn. Chúng con ngưỡng mộ họ biết bao!

 Kính lễ đức Thế Tôn, Hôm nay, bây giờ và ở đây. Con muốn bộc bạch chút tâm tư, ở quê con giờ có nhiều người cũng xưng là Thích tử nhưng laị làm những việc trái với giáo pháp và bản hoài của Thế Tôn. Họ đăng đàn nói linh tinh, phò thế gia, tham chính, thân chính, cạn tình pháp lữ. Tuy miệng cũng nói lục hoà nhưng thực sự chẳng làm theo. Hàng Phật tử sơ cơ như chúng con ít nhiều hoang mang dao động, thế lực ngoại môn thừa dịp cười chê. Có những người cũng khoác cà sa, xưng Thích tử nhưng laị suy diễn làm tổn hại đến giáo pháp của Thế Tôn, lợi dụng sự ngờ nghệch của những người sơ cơ để trục lợi, nặng danh văn lợi dưỡng… Những người như thế quả thật là loạn tử đang làm ô danh hàng Thích Tử. Viết đến đây thì con giật mình, xin sám hối vì nói lỗi của người mà chẳng chịu xem laị mình. Con xin sám hối, quả thật một phút buông lung ý mà nói lỗi người. Con vẫn thường nghe “ Sự im lặng sấm sét”, đó là sự im lặng của Thế Tôn,  của chư Bồ Tát, của chư hiền thánh. Con không đủ bản lĩnh để im lặng và cũng không muốn thỏa hiệp với cái sai, cái xấu nên mới buộc miệng mà thốt ra. Con vẫn nhớ đức Thế Tôn nói: Trong đối đãi nhị nguyên mới có tốt – xấu, thiện – ác, đúng – sai,  sạch – dơ… nhưng ở cuộc đời này, thế gian này thì làm sao mà đem chơn đế áp vào tục đế cho được? 

 Kính lễ đức Thế Tôn, đời hôm nay có nhiều kẻ nói nhảm dễ sợ, tuy giàu mà không sang, phú mà chẳng quý, học mà chẳng thức, đạo mà chẳng đức… trong đạo cũng có hiện tượng này, lượng mà chẳng chất, học mà không hành, nói mà không làm, xuất mà chẳng buông, chay mà chẳng tịnh…Quê con bây giờ san đồng xẻ núi để dựng những ngôi chùa mới cả chục triệu đô la, to lớn nguy nga như tử cấm thành, lộng lẫy như vương cung, tượng Tàu bày la liệt, cúng sao, giải hạn, trừ tà, trục vong… rất rầm rộ, giá cả niêm yết hẳn hoi, thậm chí cho trả góp. Nếu năm xưa Thế Tôn xem cung điện vàng son, tài sắc danh lợi như chiếc dép rách, vứt bỏ như như vứt gạch bể ngói vỡ để tu tập. Ngày nay thì bọn họ nhân danh Thế Tôn để xây chùa to Phật lớn, sơn son thếp vàng, mưu cầu danh văn lợi dưỡng, xem việc thân cận quan gia là vinh hạnh. Có những vị xuất gia tưởng đâu buông bỏ nào ngờ laị gia vào một cái gia khác, in danh thiếp với hàng chục chức danh mà thực sự chỉ là hữu danh vô thực. Thiền gia Nhật có câu chuyện kể:” Có một vị tướng quân đến viếng chùa, ông đưa tấm danh thiếp cho chú tiểu vào trình hoà thượng trụ trì. Chú tiểu quay ra bảo: hoà thượng nói không quen biết người này. Vị tướng quân lập tức lấy bút xoá đi hàng chữ đại tướng quân. Chú tiểu vào trình lần thứ hai thì hoà thượng mới cho mời vào và nói đây là người bạn cũ của ta!” Lẽ nào các vị khoác cà sa in danh thiếp với chức vụ dài thòng lòng không biết câu chuyện này chăng? 

 Kính lễ đức Thế Tôn, Con laị sa đà chuyện người nữa rồi, giờ con quay laị chuyện con. Con cố gắng giữ chánh niệm ngay hiện taị ở đây và bây giờ. Chánh niệm phải đi liền với chánh tư duy, nếu chánh niện là biết và sống trọn vẹn với phút giây hiện tại, thì chánh tư duy sẽ biết biện biệt chánh – tà. Giả sử có người đang sát, đạo, dâm, vọng, tửu nhưng vẫn nói tôi sống trọn phút giây hiện tại, tôi chú tâm hoàn toàn vào việc làm ở phút giây hiện tại thì cái phút giây hiện tại ấy là tà niệm chứ đâu phải chánh niệm. Vì thế chánh niệm phải gắn liền với chánh tư duy, từ đó mở rộng ra là phải có chánh kiến, chánh tinh tấn…nếu thực hiện được cả tám cái chánh thì đến một lúc nào đó sẽ có kết quả tốt đẹp. Bát chánh đạo là con đường để chuyển phàm thành thánh, chuyển mê thành giác. 

 Kính lễ đức Thế Tôn, chúng con là những gã cùng tử, có đôi khi thấy mình trong thân phận du tử, trọn chưa phải là hảo tử nhưng cũng không đến nỗi làm xấu mặt Phật môn. Chúng con có đôi khi muốn lên cô sơn hú một tiếng xem tiếng vọng bao xa trong hư không, muốn ra bể cả hét một tiếng cho dậy sóng muôn trùng. Chúng con tự nhận biết sức lực của mình. Con chim sẻ không thể làm việc của đại bàng, vịt đẹt không làm hồng hộc được. Tuy nhiên Thế Tôn vẫn dạy:” Chúng sanh, ai cũng có Phật tánh, ai cũng có thể giác ngộ”, bởi thế mà  chúng con nuôi giấc mơ như vậy! Chúng con tuy là cùng tử nhưng vẫn hằng ngưỡng mộ và vọng về Thế Tôn. 

 Kính lễ đức Thế Tôn, lúc con viết búc thư này. Thời gian vẫn không ngừng trôi, cứ mỗi sát na qua đi thì cái già, cái chết gần hơn một tí. Quá khứ, hiện taị, vị lai từ một niệm tâm sanh ra, rồi mười phương hư không cũng thế, tử sanh cũng thế… Nhưng chúng con đang sống ở cái thế giới đối đãi, thế giới tục đế này nên vẫn biết và phân biệt rõ ràng khứ , lai, hiện tại. Chúng con vẫn sanh tâm yêu tốt ghét xấu, thích sanh sợ tử, phò chánh ly tà…Chúng con biết mình trí huệ mê mờ, đức hạnh không có, tinh tấn lơ mơ nên mãi vẫn chỉ là những tay du tử mà thôi, vẫn mãi mon men bên lề con đường chánh giác, bên rìa vườn hoa trang nhiêm xinh đẹp như Lăng Nghiêm. Tuy vậy cũng hưởng được chút hương vị pháp, một chút pháp vị của giải thoát nhưng đem laị an lạc và hoan hỷ lớn lắm. Chúng con đê đầu tạ thâm ân của Thế Tôn, tạ thâm ân chư Phật ba đời mười phương, tạ thâm ân tất cả chư Bồ tát, chư hiền thánh tăng.


TIỂU LỤC THẦN PHONG 

Ất Lăng thành, 12/2020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.
Tôi viết những cảm nhận ở đây căn cứ vào những trích đoạn đã phổ biến, không đặt nó vào bối cảnh toàn diện của cuốn tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”, vì cuốn sách chưa ra đời, nhưng cũng có được cái nhìn về thủ pháp bố cục truyện và văn phong của nhà văn Trịnh Y Thư...
Có cách nào để tìm hòa bình cho vùng Trung Đông? Hãy hình dung về một phép thần nào đó, làm cho quân Israel và quân Hamas buông súng, cùng bước tới bắt tay nhau bùi ngùi, nước mắt ràn rụa, cùng nói rằng tất cả chúng ta hãy sống như một trẻ em mới sinh ra, rằng hãy quên hết tất cả những ngày đau đớn cũ, và cùng trải bản đồ ra vẽ lại, sao cho các thế hệ tương lai không bao giờ nghĩ tới chuyện cầm súng giết nhau nữa. Hình như là bất khả. Đúng là có vẻ bất khả, để có thể sống như một trẻ em mới sinh ra đời. Chỉ trừ, vài thiền sư và nhà thơ. Tôi có một giấc mơ. Vua Trần Nhân Tông bay từ đỉnh núi Yên Tử tới vùng Gaza, ngay nơi cửa khẩu đang mịt mù khói súng. Bên ngoài cửa khẩu là hàng ngàn xe tăng Israel đang chờ tiến vào, bên trong là nhiều đường hầm và hố chiến hào nơi chiến binh Hamas thò mắt nhìn ra để chờ trận chiến cuối đời của họ. Ngay nơi cửa khẩu là một giáo sĩ Đạo Do Thái ngồi đối diện, nói chuyện với một giáo sĩ Đạo Hồi, trước khi họ có thể nhìn thấy đồng bào của họ xông vào nhau.
Tiểu thuyết gia, thi sĩ và kịch tác gia người Na Uy Jon Fosse – người ngày càng thấy số lượng độc giả trong thế giới nói tiếng Anh càng tăng vì những cuốn tiểu thuyết viết về những đề tài tuổi già, cái chết, tình yêu và nghệ thuật – đã được trao Giải Nobel Văn Chương hôm Thứ Năm, 5 tháng 10 năm 2023, “vì những vở kịch và văn xuôi đầy sáng tạo giúp tiếng nói cho những điều không thể nói,” theo bản tin của báo The New York Times cho biết hôm 5 tháng 10 năm 2023. Điều này đã làm cho Fosse trở thành người đầu tiên lãnh giải thưởng Nobel Văn Chương viết bằng tiếng Nynorsk. Ông là người Na Uy thứ tư đoạt giải này và là người đầu tiên kể từ Sigrid Undset trúng giải vào năm 1928. Là tác giả đã xuất bản khoảng 40 vở kịch, cũng như tiểu thuyết, thơ, tiểu luận, sách thiếu nhi và nhiều tác phẩm được dịch sang nhiều thứ tiếng, Fosse đã từ lâu được quý trọng vì ngôn ngữ bao dung, siêu việt và thử nghiệm chính thức của ông.
Kỷ vật, không trừu tượng, là một thứ gì bằng vật chất ghi lại, cưu mang, hoặc ẩn tượng một kỷ niệm nào đó. Loại kỷ niệm có động lực gợi lại những vui buồn, thương tiếc, nhớ nhung; có khả năng làm nhếch một nụ cười hoặc làm mờ khóe mắt. Có những kỷ vật dù đã mất nhưng không quên. Mỗi đời người càng sống lâu, càng có nhiều kỷ vật. Điều này cất vào kho tàng quá khứ, có hay không, nhiều hạnh phúc đã qua mà mùi hương không bao giờ xao lãng.
Có một tương đồng giữa Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden và Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Phú Trọng. Đó là đôi khi họ làm thơ. Nhưng dị biệt lớn giữa hai nhà thơ tài tử này chính là chủ đề, là nguồn cảm hứng để làm thơ. Nguyễn Phú Trọng làm thơ ca ngợi ông Hồ Chí Minh và những chủ đề tương tự, thí dụ, một lần ông Trọng làm ca ngợi khách sạn Mường Thanh Grand Phương Đông. Nhưng Tổng Thống Biden chỉ làm thơ tình, và chỉ tặng vợ thôi. Chúng ta không nói rằng thơ hay, hay dở, chỉ muốn nói rằng trong tâm hồn của Biden là hình ảnh thướt tha của Đệ nhất phu nhân Jill Biden. Và trong tâm hồn của ông Trọng là những khối xi măng có hình Lăng Ông Hồ, và rồi hình khách sạn Mường Thanh. Không hề gì. Thơ vẫn là thơ (giả định như thế). Bây giờ thì hai nhà thơ Joe Biden và Nguyễn Phú Trọng đã gặp nhau.
Truyện Thạch Sanh Lý Thông lưu truyền trong dân gian dưới hình thức chuyện kể truyền miệng chắc có đã lâu, phải hiện hữu trước khi ông Dương Minh Đức đưa bản văn sáng tác của mình sang bên Quảng Đông khắc ván ‒ cũng như đã từng đưa vài chục tác phẩm khác của nhóm, nhờ đó miền Nam Kỳ Lục tỉnh có được một số tác phẩm Nôm đáng kể mà người nghiên cứu Nôm thường gọi là Nôm Phật Trấn...
Sau tháng Tư năm 1975, tất cả những tác phẩm truyện ngắn truyện dài của các tác giả Việt Nam Cộng Hòa [1954-1975] đều bị chế độ mới, Xã hội chủ nghĩa cấm in ấn, phổ biến, lưu trữ. Tên tuổi tác giả, tác phẩm được công bố rõ ràng. Việc tưởng xong, là quá khứ. Bỗng dưng 32 năm sau năm, 2007, từ Hà Nội một nhà văn có chức quyền, có Đảng tịch, ông Phạm Xuân Nguyên, vận động, hô hào sẽ in lại một số tác phẩm Miền Nam, đang bị cấm. Trước tiên là 4 [bốn] tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Đó là các tác phẩm Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Tiếng sáo người em út và Nhan sắc. Khi sách được phát hành có ngay phản ứng. Rất nhiều bài báo lần lượt xuất hiện liên tiếp trên các báo tại Sàigòn “đánh/ đập” ra trò. Hóa ra, những người vận động in lại sách là các cán bộ văn hóa từ Hà Nội. Hung hăng đánh phá là những cây bút… Sàigòn. Trong đó có Vũ Hạnh, một cán bộ nằm vùng, người trước kia bị chế độ Miền Nam bắt giam tù, Dương Nghiễm Mậu là một trong số các nhà văn, ký đơn xin ân xá cho Vũ Hạnh.
Kể lạ, ở “nước non mình”, bút hiệu của các nhà sáng tác qua nhiều lãnh vực văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, nghiên cứu phê bình, truyền hình, báo chí, diễn viên, có bút hiệu/danh, là Sơn [không kể Sơn ở đầu như Sơn Nam, Sơn Tùng, Sơn Vương…] là đông vô số kể. Thiếu Sơn, Triều Sơn, Trúc Sơn, Phạm văn Sơn, Trịnh Công Sơn, Mai Sơn, Phong Sơn, Vân Sơn, Trần văn Sơn, Linh Sơn, Trần Áng Sơn, Từ Sơn, Vinh Sơn, Tiến Sơn, Cao Sơn, Ngô văn Sơn, Lê Thái Sơn, Nguyễn Lê La Sơn, Lê Tây Sơn. Chu Sơn, Tùng Sơn, Hoài Sơn, Đào Bá Sơn…Trong đó hai ông Sơn thi sĩ là….đáng yêu nhất. Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Bắc Sơn. Đáng yêu, vì hai ông này đều có tài, đều có cái lạ trong thơ, lẫn ngất ngư, ngất ngưỡng, ngất ngây trong đời sống.
Bài phỏng vấn dưới đây do Christian Salmon thực hiện, đăng trên quý san văn học The Paris Review năm 1983 và sau đó xuất hiện trong tập văn luận “Milan Kundera Nghệ thuật tiểu thuyết” xuất bản năm 1986...