Hôm nay,  

Xuân Khúc, Những Cột Mốc Trong Dòng Đời

2/12/202100:02:00(View: 3772)
HINH CHO BAI XUAN CUA DOAN HUNG

Có ai đó đã ví đời người như một dòng sông, mỗi giai đoạn cuộc đời như một khúc quành. Mỗi người thường có những dấu ấn riêng để hồi tưởng lại những cột mốc trong dòng đời. Có khi là một nơi chốn, có khi là một kỷ vật, hay một nhân vật.

Riêng tôi, những cột mốc trong dòng đời gắn liền với những bản nhạc xuân. Ngay từ bé khi chưa học nhạc, chưa biết đàn, tôi đã thích nghe và nhớ khá lâu những ca khúc. Tôi cũng đặc biệt say mê không khí những ngày Tết. Có lẽ vì vậy, tôi vẫn nhớ như in những ca khúc xuân mà mình có kỷ niệm trong từng chặng tuổi đời.

Tôi học tiểu học ở trường Sư Phạm Thực Hành, ngôi trường ở Sài Gòn áp dụng lối dạy học mới, năng động kiểu Mỹ dành cho học sinh. Tôi được thầy cô dạy hát trong những dịp lễ đặc biệt, trong đó có ngày Tết. Ở tuổi thơ ấu, những ngày chuẩn bị đón Tết là thần tiên nhất. Ở nhà thì bận bịu dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, mua sắm cho ba ngày Tết. Lên trường thì bài vở nhẹ nhàng, các lớp lo tập văn nghệ mừng xuân. Tôi nhớ cô giáo dạy hát bài Nắng Tươi của Hoàng Quí, ca khúc như vẽ ra được một bức tranh sáng ngời của mùa xuân:

Nắng trong khóm cây xuân sáng ngời
Kìa chim bay xa xa ca hót trong mây
Gió trong khóm cây xuân sáng ngời
Kìa bao em tay nắm reo vang tiếng cười
Ngàn hoa hé tưng bừng hương hoa nồng ngát
Ngàn chim hót vang lừng cất cánh ngang trời…

Nắng. Gió. Chim muông. Hoa lá. Thiên nhiên trong ngày xuân như hiện ra trong mắt. Và tôi thấy mình chính là em bé trong bài hát, reo vang tiếng cười và hát mừng xuân mới…

Ca khúc Nắng Tươi ngày nay ít nghe hát lại. Tìm trên mạng, chỉ thấy một video dạy hát dành cho các em tiểu học ở VIệt Nam:
Lớn lên một chút, ở tuổi thanh xuân mới bắt đầu yêu đương, trong những đêm xuân má ấp môi kề với người tình, tâm hồn tràn ngập hạnh phúc, bản nhạc Khúc Hát Thanh Xuân như cứ vang mãi trong tâm tưởng. Với giai điệu cổ điển của Johann Strauss, lời Việt của Phạm Duy, Khúc Hát Thanh Xuân là bản luân vũ mùa xuân, giai điệu trầm bổng, thanh thoát như lời tình tự lứa đôi:

Ngày ấy khi Xuân ra đời
Một trời bình minh có lũ chim vui
Có lứa đôi, yêu nhau rồi
Hẹn rằng còn mãi không nguôi
Nhạc lắng hương xuân bồi hồi
Như vì tình ai tiếng hát lên ngôi
Nói với nhau, yêu nhau rồi
Một ngày còn mới tươi môi…

Những mùa xuân tràn đầy tình yêu như vậy là bất tử. Để mỗi độ xuân về, những người tình dù đã bạc mái đầu vẫn nhớ mãi bái hát của một thuở xuân nồng:

…Từ đó khi xuân tái hồi
Cho bùi ngùi thương nhớ tới xa xôi.
Nhớ tới câu thương yêu người
Một ngày tuổi mới đôi mươi…

Hầu hết những người ở lại Sài Gòn sau 1975 như tôi đã chứng kiến những mùa xuân khốn khó. Xuân về mà nỗi lo cơm áo gạo tiền vẫn không dứt. Thay cho xuân đoàn tụ là những cái tết chia xa, người đi kẻ ở. Nhưng chúng tôi không muốn mất đi niềm hy vọng của mùa xuân. Chúng tôi vẫn hát, vẫn cười, vẫn nâng ly rượu mừng xuân mới. Trong những cái tết thăng trầm đó, giọng ca lãng tử của cố nhạc sĩ Trần Quang Lộc trong bái hát Có Phải Xuân Về Không Em do chính anh sáng tác đã trở thành một xuân khúc không bao giờ quên. Xuân nghèo nhưng vẫn hào sảng. Bôn ba giữa chợ đời, nhưng vẫn còn có cành mai nở, có ly rượu để chào xuân và uống say đời:

Em ơi mai nở, có tiếng nói cười, mùa xuân đã về rồi sao
Đi qua phố chợ, mua dăm ly rượu, mừng xuân uống cho say đời
Lô nhô bóng người thấp thoáng giữa đời chào nhau chén rượu đầu môi
Quen thân lưu lạc hát giữa phố người bài ca ấm êm cho đời…

Trong những mùa xuân thiếu thốn cả vật chất lẫn niềm vui tinh thần đó, chúng tôi nhớ lại những mùa xuân tươi đẹp đã qua, và hy vọng có những đổi thay tốt đẹp hơn cho một năm mới:

…Vui xuân năm này thương xuân năm nào gặp nhau nói chuyện ngày qua
Hương xuân tan vội bao năm đứng đợi tình xuân dấy men trong lòng
Em ơi xuân về có tiếng nói cười dường như có huông đổi thay
Nghe viên đá nhỏ lăn theo chân người lòng nghe bỗng dưng bồi hồi…

 Rồi tôi cũng như hàng triệu người Việt khác đã rời bỏ quê hương Việt Nam để định cư tại Mỹ, đi tìm một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái, cho chính mình. Trong những cái Tết đầu tiên nơi vùng đất mới, tôi đi tìm những bản xuân ca hải ngoại chia sẻ nỗi lòng hoài hương của mình. Và cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không thể tránh khỏi nghẹn ngào khi hát thầm ca khúc Thư Xuân Hải Ngoại của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng. Tôi tin rằng đây là ca khúc hải ngoại về chủ đề xuân tha hương cảm động nhất. Hình như Trầm Tử Thiêng viết ca khúc này với tâm tình của cả kẻ ở lẫn người đi. Tôi thấy hình ảnh của mình lúc còn ở quê nhà mong chờ những lá thư người thân kể chuyện đón tết ra sao ở Úc, Mỹ; và nay là ở hải ngoại nhớ lại những mùa xuân êm đềm ở cố hương:

…Ước gì giờ này anh đang ôm em xuân về ngoài kia
Mối tình bình yên đôi ta không lo lắng gì chia lìa
Thế mà người tình phải đi, thế mà cuộc tình tan vỡ
Thân phận bềnh bồng để xuân trôi qua âm thầm đợi mong…
…Thư xuân từ ngàn phương Mang nỗi lòng người tha phương Ôm ấp tình hoài hương
Thư xuân là rượu cay Tương tư rót tràn trên giấy Bên trời đông tuyết say…
Ước gì giờ này nhạc đang du dương trong bài tình xuân
Bên này nằm nghe quê hương bên kia pháo nổ tưng bừng
Chan hoà nhạc lòng lả lơi, mơ người về từ muôn lối
Suối tuôn lệ mừng vòng tay thân yêu ôm trọn mùa xuân…

Hoài niệm… Day dứt với nỗi nhớ những mùa xuân xưa…Mơ về mùa xuân đoàn tụ trong tương lai… Chỉ trong vài câu nhạc, Trầm Tử Thiêng đã phác họa được tâm tình của cả dân tộc Việt trong một giai đoạn lịch sử thương tâm nhất…

Rồi dần dần tôi cũng đi vào giai đoạn tuổi vàng, độ tuổi mà nhiều người bắt đầu tìm lại những gì đã xảy ra trong đời mình. Cuộc đời phù du, ngắn ngủi thật. Nhìn lại nó giống như xem một cuốn phim chỉ dài vài tiếng, trong đó mình là nhân vật chính với đủ mọi tình tiết vui buồn. Và chẳng có ca khúc nào phác họa lại một kiếp người xúc tích, sống động như Xuân Ca của nhạc sĩ Phạm Duy. Bài hát chỉ có bốn câu thật đơn giản, được lập lại trong năm phiên khúc. Mỗi phiên khúc là một giai đoạn cuộc đời. Mà đời người theo Phạm Duy thì bắt đầu ngay từ đêm cha mẹ động phòng để hình thành mầm sống thai nhi. Rồi ta chào đời, lớn lên để bắt đầu yêu đương, trải qua biết bao vui sầu. Dù sao đi nữa, người nhạc sĩ tha thiết yêu người, yêu đời vẫn muốn được tái sinh trở lại, để được làm tình nhân thêm nhiều kiếp nữa:

Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui
Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về.
Xuân âm u lắt leo trong nguồn suối mơ
Bừng reo rồi theo nắng lên từ cha chói chan lòng mẹ…
…Xuân tôi sang bến yêu tôi tìm gió trăng
Tình Xuân là Xuân có khi mừng vơi có khi sầu đầy
Xuân yêu đương muốn căng lên nhựa sống ngon
Tìm em gặp em đón Xuân nghìn năm bão Xuân ngập lòng
… Xuân tôi ơi sức Xuân tôi còn khát khao
Dù nay, dù mai cũng như mọi ai chết trong địa cầu
Xuân muôn năm có ta Xuân còn hỡi Xuân
Thì xin, thì Xuân hãy cho tình nhân sống thêm vài lần.

Câu điệp khúc của Phạm Duy chỉ lập lại có hai chữ “xuân ơi” mà nghe tha thiết làm sao! Tình yêu mùa xuân của người nhạc sĩ thiên tài thật là mãnh liệt:
Xuân Xuân ơi, Xuân ới, Xuân ơi…

Và rồi trong giai đoạn cuối đời, nếu có ai đó hỏi tôi ước gì trong mùa xuân, tôi xin mượn lời ca của bài Tâm Xuân (Đạo Ca 10) cũng của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Phạm Thiên Thư để nói lên lời ước nguyện:

Xuân về trong gió, hoa lay lững lờ
Xuân về đám mây, bướm vàng nhụy bay
Xuân về lòng đất, mầm tươi nhựa trào
Xuân về non cao, chim mừng suối reo…
…Em về siêu nhiên, hành hương chùa chiền
Dâng hoa cúng Phật, ưu phiền sẽ tan
Em mở lòng ra, vui cùng cỏ hoa
Xuân về vũ trụ ! Ta về lòng Ta !...
…Mùa Xuân có không ? Hay là cõi Tâm ?
Mùa Xuân có không ? Hay là cõi không ?
Về nguồn về cội ! Về nguồn về cội !
Để rồi vươn tới, với lòng mênh mông…

Mùa xuân đất trời đến rồi đi, cũng như tuổi xuân của một đời người. Chỉ có xuân trong cõi tâm là những mùa xuân miên viễn. Hãy trở về nguồn cội của tâm để được sống trong những mùa xuân bất tận…

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nói đến việc tập hát Karaoke, tôi nghĩ, có lẽ không có công việc gì mà một số lớn người Việt có thể tự nguyện tập luyện hăng say như vậy. Thời giờ dùng để tập hát, có lẽ, ngang ngửa với thời giờ xem phim bộ. Say mê. Tưởng tượng. Đi làm về, bật máy lên hát. Ngủ dậy, vừa thay đồ vừa hát lập đi lập lại kẻo quên giai điệu. Tắm hát. Lái xe hát. Vào sở làm, hát lén. Ăn trưa ngồi một mình, hát lẩm bẩm. Tôi có một anh bạn, ngày thường cũng như cuối tuần, ngoài những lúc đi họp hát, lúc nào cũng thấy anh ngồi thẳng thóm nơi ghế sa lông dài, nhìn chăm chăm vào máy truyền hình, miệng hát và tự làm duyên một mình, tay đưa lên diễn tả như đang đứng trên sân khấu. Vợ anh ta than phiền, Ổng không làm gì hết. Tối ngày ngồi một chỗ hát đến nổi lủng luôn ghế da. Năm xưa, vợ chờ chồng đi chinh chiến đến nổi hóa đá. Nay, vợ chờ chồng ca hát, lạnh lẽo gối giường. Khuya khoắt mới chịu vào ngủ. Bạn tôi đến nay đã thành ca sĩ đối với một số thân hữu có giới hạn.
Sài Gòn đại dịch, những con đường vắng ngắt, những con hẻm buồn tênh, những mặt người sầu lo. Quán xá hoang vu, chợ búa im lìm, thành phố phong tỏa rồi. Dòng người nghẹn ngào, lìa xa thành phố, tìm đường về quê, nương náu với người thân, ước mong trở lại khi dịch cúm không còn. Nhưng anh còn em, đôi ta còn nhau, ta yêu Sài Gòn bao mùa mưa nắng, ta thương Sài Gòn năm tháng vẫn hiên ngang. Vững tin quê hương lướt qua cơn đại dịch.
Có một sự kiện rất lý thú là trong Kinh Phật kể chuyện một hôm, lúc Đức Phật còn tại thế, các nhạc thần Càn Thát Bà (Gandharva) đã đến chỗ Đức Phật và tấu nhạc để cúng dường Ngài và Đại Chúng. Nhạc của những nhạc thần này hay và sống động đến độ nhiều vị đệ tử của đức Phật cũng bị lôi cuốn và đứng dậy nhảy múa theo tiếng nhạc dù chỉ là giây lát. Sự việc này cho thấy rằng từ thời Đức Phật vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch âm nhạc đã xuất hiện trong các pháp hội, các sinh hoạt của thất chúng đệ tử Phật.
Anh bạn thi sĩ, Nguyễn Bá Trạc, cho tôi một lời khuyên, khi mới vừa bước chân vào xóm văn chương. Anh nói: -“Ai khen mình, dù không đúng, cũng vui. Nếu khen đúng, lại càng vui hơn. Ai chê mình, dù không đúng, cũng buồn. Nếu chê đúng, lại càng buồn hơn.” Thật là chí lí. Tôi có hàng trăm kinh nghiệm về chuyện này. Trong các loại chê, lời vợ chê là đau đớn nhất, lưu trữ lâu dài nhất, thông thường là đúng nhất. Nếu biết sửa đổi những gì vợ chê, những người đàn ông đó đều trở thành thiên tài. Còn lời vợ khen thì sao? Đề phòng, sắp tốn tiền.
What the Horse Eats, tựa đề tiếng Việt là Trong Bụng Ngựa, là vở opera kể một câu chuyện có thật xảy ra thời Nhật chiếm đóng Việt Nam năm 1945. Ở những làng quê miền Bắc, những cái xác trơ xương nằm vất vưởng ngoài đường. Người ta, cũng là những bộ xương còn sống còn đi được, gom xác chết chất lên xe cun cút đem chôn tập thể. Cả làng tiêu điều như thành phố ma. Hơn hai triệu người Việt Nam đã chết đói. Dân số vào thời đó là 18 triệu. Chiến tranh, nạn đói, chế độ thực dân dồn ép con người ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa danh dự và tình thương cho con. Một anh chăn ngựa lo lắng cho gia đình, đặc biệt là đứa con mới chào đời. Anh phải nhận lời làm không công cho viên Đại Uý Nhật, chăm nom con Ngựa Trắng quý của ông ta, cùng lúc anh mang trong đầu một tính toán táo bạo. Người vợ của anh thì đang vật lộn với trách nhiệm và tình thương của người mẹ, chỉ biết gắng gượng nuốt rễ cây. Hai vợ chồng cố gắng sống mòn trong danh dự. Cuối cùng, cùng đường, họ đành chấp nhận
Trầm Tử Thiêng đã hiến trọn một đời cho âm nhạc, ông được hàng triệu người thương yêu mến mộ. Kho tàng nghệ thuật của ông là 200 ca khúc tình yêu, thân phận, quê hương và chiến chinh. Hành trình sáng tác cũng như tác phẩm của Trầm Tử Thiêng gắn liền với thời cuộc của đất nước và mối tình của chính cuộc đời ông…
Không hiểu vì lý do gì mà nhạc sĩ Lan Đài sáng tác nhiều ca khúc mang nỗi buồn man mác xa xôi trong khi nghề nghiệp và tình yêu với cuộc sống cũng là niềm ước mơ của nhiều người. Trong thời gian qua, tôi đã viết nhiều về thơ văn nơi phố cổ Hội An, càng về già càng nhớ nơi chốn với bao nhiêu kỷ niệm của thuở học trò. Hai đêm qua, tôi nghe lại những ca khúc của nhạc sĩ Lan Đài và viết những dòng nhạc về ông với niềm thương cảm.
Trong hồi ký, Bejarano kể rằng việc bà được cứu bởi các binh sĩ Hoa Kỳ là những người đã cho bà cây đàn accordion, mà bà đã chơi vào ngày binh sĩ Mỹ và những người sống sót của trại tập trung nhảy múa chung quanh tấm hình bị đốt cháy của Adolf Hitler để ăn mừng Đồng Minh chiến thắng Đức Quốc Xã. Bejarano đã di cư tới Do Thái sau chiến tranh và lập gia đình với Nissim Bejarano. Cặp vợ chồng này có 2 người con, Edna và Joram, trước khi trở về Đức vào năm 1960. Sau một lần nữa chống chủ nghĩa bài Do Thái công khai, Bejarano quyết định hoạt động chính trị, đồng sáng lập Ủy Ban Auschwitz vào năm 1986 để giúp những người sống sót nền tảng cho những câu chuyện của họ.
Steven Spielberg, người viết truyện mà bộ phim “The Goonies” dựa vào đó để đóng, nói với Variety rằng Donner là “thiên tài về rất nhiều thể loại.” “Ở trong quỹ đạo của ông ấy giống như đi chơi với người huấn luyện yêu thích của bạn, giáo sư thông minh, nhà động viên quyết liệt, người bạn đáng mến nhất, đồng minh trung thành nhất, và – dĩ nhiên – Goonie vĩ đại nhất,” theo Ông Spielberg cho biết. Sinh tại Quận Bronx, New York, Donner đã bắt đầu vào ngành truyền hình vào đầu thập niên 1960s, với nhiều uy tín gồm loạt phim “The Twilight Zone” và phim kinh dị tình báo “The Man From Uncle.” Nhưng phải đợi đến giữa thập niên 1970s ông mới ghi dấu ấn tại Hollywood. Tác phẩm “Superman” năm 1978 của ông với sự tham gia của ngôi sao Christopher Reeve thường được xem như là phim siêu anh hùng hiện đại đầu tiên.
Spears đã chỉ trích cách mà gia đình của cô, gồm cha cô là ông Jamie Spears, đã hành xử quyền giám quản đối với cô và phản ứng với những quan ngại của cô về việc chăm sóc của cô. “Gia đình tôi đã chẳng làm điều gì cả,” theo cô nói. “Bất cứ điều gì xảy ra đối với tôi cũng phải được chấp thuận bởi cha tôi… ông là người chấp thuận mọi thứ. Cả gia đình tôi đã không làm gì cả.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.