Hôm nay,  

Nụ Tầm Xuân Đã Thành Điều Thiêng Liêng *

11/10/202400:00:00(Xem: 4020)

VÀ EM LỄ KHẤN DÒNG
( Đọc “ Và em, lễ Khấn dòng...” của Francis Assisi Lê Đình Bảng)
 
“ VÀ EM, LỄ KHẤN DÒNG” ( VE,LKD) là thi phẩm thứ 24 của nhà thơ Lê Đình Bảng, sau 23 tác phẩm đã xuất bản gồm các sách Giảng văn, Giáo trình sách giáo khoa, Thơ, Văn, Bút ký... xuất bản từ năm 1962 ở Sài Gòn và hải ngoại cho đến nay. Sách dày 110 trang gồm 63 bài thơ và lời giới thiệu của nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc, do nhà Xuất bản Tuổi Hoa Publishing, Hoa Kỳ ấn hành tháng 8 năm 2024, với tranh bìa của họa sĩ Nguyễn Hà và ký họa chân dung tác giả của họa sĩ Chóe.

Mở đầu lời giới thiệu thi phẩm VE,LKD, Bùi Vĩnh Phúc đã viết: “ Và em, lễ Khấn dòng” thơ tình hay thơ đạo, của Lê Đình Bảng là một tập thơ có một nét đẹp khó tìm thấy, trong dáng nét và thể loại riêng của nó...” ( trang 5, VE,LKD)

Nhà thơ LÊ ĐÌNH BẢNG
Nhà thơ Lê Đình Bảng
VE,LKD là tựa đề tập thơ và cũng là tên bài thơ ở trang 36 trong tập thơ, khá ấn tượng và thu hút sự tò mò của người yêu thơ, nhất là những độc giả “ngoại đạo”. Đó là “lễ Khấn dòng”. Vậy “lễ Khấn dòng” có nghĩa là gì? Theo “ Giáo luật Công giáo. Com”, “ Khấn dòng” được định nghĩa là: “Khấn dòng được diễn tả như một giao ước được thực hiện một cách cá nhân giữa tu sĩ và Đức Kitô, để được nên đồng hình đồng dạng với Ngài qua đời sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Khấn dòng được định nghĩa như một quà tặng là dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa hầu chu toàn trọn vẹn Thánh ý của Người trong sự thông hiệp với anh em...” Điều này, độc giả cũng sẽ cảm nhận và đồng cảm cùng nhà thơ, khi ông viết: “ Bây giờ, ngày tháng ra Giêng/ Em là của Chúa, của riêng nhà dòng/ Mỗi lần ra đứng, trông mong/ Gửi hương cho gió vào trong tường rào ...” (trang 36), “ Em” của nhà thơ, chính là nữ tu, đã “dâng hiến” chính mình cho Thiên Chúa, em là “Nụ tầm xuân”, cũng “ nở ra xanh biếc” trong trái tim si tình của tác giả, song “ nụ tầm xuân” ấy đã “ Thành điều thiêng liêng”, “em như thánh nữ” trong ngưỡng phục của tâm hồn thi sĩ. Nhẹ nhàng, thanh thoát và cũng thật rưng rưng!

Cũng theo nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc, “cái đẹp lạ lùng của tập thơ là ở chỗ nó đi thong dong giữa hai bờ, hai cõi. Cõi trần, cõi bụi và cõi đạo, cõi bát ngát hương hoa... Thơ Lê Đình Bảng phản ánh cái “chập chờn” nửa đời, nửa đạo. Cái nửa bụi, nửa trong...”. Thật ra, “đạo” và “đời” trong thơ ông cũng chỉ là những xúc cảm thuần thành của một thi sĩ đạo gốc, yêu đời và kính Chúa. Bởi phàm là con người hiền lương, trong mọi cảm xúc, dù lúc hoạn nạn, khổ đau, hay khi sung sướng, hạnh phúc đều nghĩ đến Chúa ( Phật). Chính vì vậy, mà nhà thơ Hàn Mặc Tử, có lúc đã thảng thốt kêu lên: “ Maria linh hồn tôi ớn lạnh...”, hay như “ Lạy Bà là Đấng trinh toàn thánh vẹn/ Giàu nhân đức, giáu muôn hộc từ bi...” ( Thánh nữ đồng trinh Ave Maria), khi cuối đời cùng căn bệnh nan y, khao khát sống và khao khát cứu rỗi. Hay như nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà, khi yêu một người con gái có đạo và ông đã “thú nhận”: “ Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo/ Nhưng tin có Chúa ngự trên trời/ Trong lòng con, giữa màu hoa trắng/ Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!” ( Hoa trắng thôi cài trên áo tím, 1957). Hay như cảm xúc thật chan hòa, đầm ấm lẫn uất nghẹn của thi sĩ Vũ Anh Khanh, khi đứng trước một xóm Đạo hiền hòa, bị chiến tranh tàn phá: “ Đây Tha La xóm đạo/ Có trái ngọt cây lành/ Tôi về thăm một dạo/ Giữa mùa nắng vàng hanh.../... Tha La giận mùa thu/ Tha La hận quốc thù/ Tha La hờn quốc biến.../... Lạy Đức Thánh Cha/ Lạy Đức Thánh Mẹ/ Lạy Đức Thánh Thần...” ( Tha La, 1949).

VÀ EM LỄ KHẤN DÒNG 1
Trở lại với thi phẩm “ VE, LKD” của Francis Assisi Lê Đình Bảng với 63 bài thơ là 63 bông hoa tươi thắm, được ông chăm sóc kỹ lưỡng với ân tình của một tín đồ rất mực kính Chúa, yêu đời và là một vị Giáo Sư dạy Quốc Văn của nhiều trường Công giáo nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ngôn ngữ chỉn chu, chắt lọc, song cũng bình dân, dễ hiểu, với hương sắc dân dã của các loài hoa: Hoa xoan, hoa bưởi, hoa sứ, hoa khế, hương nhu, hoa cối xay, hoa quế... hay đượm một chút thanh tân đài các như quỳnh, ngọc lan, mẫu đơn, huệ trắng...Đó là: “ Lệ mùa rơi đóa Thu phong ấy/ Hương ngọc lan ủ dưới gối nằm/ Chợt nửa khuya mơ hồ tỉnh giấc/ Đêm thơm như là đóa từ tâm” ( Ngọc lan hương, trang 35). Hay như: “ Nhớ vàng bông cải, câu kinh sớm/ Nhớ tháng Giêng, đồng bãi cỏ non.” ( Trong vườn ngọc lan, trang 31), và rồi: “ Về đây, vào lễ hương. Em nhé/ Xin hái dùm tôi một đóa hoa/ Này, mẫu đơn kề bên cửa sổ/ Một chùm xinh nở trước hiên nhà” (Mẫu đơn, trang 56).

Điều thú vị và khá đặc biệt, trong thi pháp của Lê Đình Bảng, độc giả bắt gặp phần lớn các bài thơ trong thi phẩm đều có cái kết “mở”, có nghĩa là nhà thơ không tự mình “ép” độc giả phải đồng tình và xúc cảm cùng với cái kết bài thơ của mình, mà có thể còn mở ra thêm... một câu thơ, một khổ thơ hay một cái kết khác theo tâm ý và xúc cảm của người đọc? Có thể lẫy ra đây một vài ví dụ: Ở bài thơ “Dấu yêu” trang 17, khổ cuối: “ Và khi ngọn khói hương tan/ Ta lơ đễnh giữa muôn vàn dấu yêu/ Ấy, ai về tận lam kiều/ Vin nhành sương sớm, nhắn chiều giá băng”. Nhắn gì với chiều giá băng, hay giá băng như thế nào? Độc giả có thể tự tìm cho mình câu trả lời! Hay như bài “ Mùa trăng Vu lan” trang 19, nhà thơ kết: “ Cứ mỗi mùa Vu lan, cúng quả/ Chùa làng bên mở huệ, tuần chay/ Dọc đường, ra nghĩa trang. Em bảo: “ Mẹ ngủ trong gò đất cỏ may/ Thành bụi, thành tro than lãng đãng/ Vầng trăng tơ mọc giữa ban ngày” và điều gì cảm xúc nữa? Cũng có thể nối vào! Tương tự bài thơ “ Bên ấy bên đây” trang 23, hai câu kết: “ Bắt xuồng theo nước ra sông/ Đang mùa cá chạy trắng đồng, lũ dâng” v.v...

Tình yêu trong thơ Lê Đình Bảng, như trên đã viết. Trước hết, trong sâu thẳm và trái tim ông là niềm tin yêu luôn kính Chúa: “ Lạy Chúa,/ nhậm lời con khấn nguyện/ Dù con,/ sau trước, chỉ là không/ Dù con/ như cánh hoa đầu gió/ Tan tác/ về nơi đâu, bão giông” ( Lời dâng, trang 40), hay như “ Nhiều khi, trong cõi phiêu linh/ Chỉ mình Chúa ngự và... mình Em thôi” ( Chiêm bao, trang 46), và chỉ có niềm tin mới khiến người thi sĩ, viết ra những câu thơ gan ruột: “ Những gì tôi có riêng tôi/ Chẳng qua, là của Chúa Trời ban cho...” ( Ơn Trời, Trời cho, trang 68).

Bên cạnh niềm tôn kính Chúa là tình mẹ dạt dào, cao cả, nuôi nấng tác giả và hồn thơ ông : “ Mẹ ngồi / trước mái tây hiên/ Ru con ru cả/ người bên kia nhà/ Đầy vườn, cây bưởi ra hoa/ Đọc kinh/ cầu nguyện, kẻo sa linh hồn” ( Tôi ru tôi một đời, trang 26). Mẹ luôn là người ông đã tâm sự: “ Mẹ ôi/ vừa mới hôm qua/ Người yêu con/ đã đi xa, xa rồi...( Gửi về nơi xa lắm, trang 59), và tác giả luôn ghi nhớ: “ Con đi học đạo, xa nhà/ nhớ câu kinh muộn, tiếng gà ban trưa/ Nhớ từng đường chỉ, mau thưa/ Những manh áo vá vải thô bạc màu.../...Gạo cơm từng bữa. ăn đong/ Chắt chiu, lưng dạ đỡ lòng, cho qua/ Thế rồi ngã bảy, ngã ba/ Con đi học đạo, xa nhà đã lâu...” ( Con đi học đạo xa nhà, trang 70).

Tình yêu riêng tư, trai gái thường tình trong thơ Lê Đình Bảng luôn bàng bạc trong từng bài thơ của thi phẩm, có lúc ấm áp, dịu dàng: “ Bao giờ, Em ở bên tôi,  nhỉ/ Bên ấy, bên này, thôi cách xa/.../ Trời ơi, hạnh phúc êm đềm quá/ Giấu để riêng mình, không nói ra” ( Bao giờ và chẳng bao giờ, trang 58), có khi là sự xao xuyến lặng thầm: “ Lặng thầm/ trong / mỗi câu kinh/ Mà Em/ thì vẫn đinh ninh/ như là.../ Những ngày xưa, mới lên ba/ Khi lên ở phố/ xa nhà, xa quê.” ( Chuyện lòng, trang 42. Cái rất riêng của thơ ông, là “Em” luôn được viết hoa, được trân trọng, nâng niu và dành giữ, bởi: “ Vì em thở đẫy mùi thơm ngát/ Mỗi ngón tay là mỗi búp hoa/ Mà sợi lạt giang, chưa buộc chặt?/ Cơ hồ ai muốn gỡ bung ra” ( Tĩnh tâm, trang 20). Điều đơn giản là ông đã nhận ra: “ Có phải, Em về từ cõi khác/ Hiện hình Thánh nữ Tê rê sa/ Làm mưa hoa hồng xuống, mưa đều khắp/ Cả thế gian, vui hưởng thái hòa” ( Ngày mai, lễ Khấn dòng, trang 22). Đó là: “ Em về bên ấy/ trăng soi/ Chắp tay hạnh nguyện/ một đời ẩn tu” (Hương nhu, trang 27). Một tình yêu buồn, đôi khi thi sĩ cũng muốn... phá cách, mượn một hình ảnh khác qua ca dao mà bộc bạch tâm trạng mình: “ Những chiều buồn, đứng co ro/ Nhác trông khói nước, lưng bờ, chênh chao/ “  Nàng ơi, tu ở chùa nào/ Cho tôi, làm tiểu, xin vào tu chung” ” (Em lễ chùa nào, trang 41). Song tất cả đều là “hạnh nguyện” là thực tế: “ Em là của Chúa, của riêng nhà dòng” và thi sĩ chỉ là: “ Em như Thánh nữ, ta người trần gian...” (Và em lễ Khấn dòng, trang 37). Cuối cùng thì “ Nụ tầm xuân” xưa, dấu yêu một thời “ Không đi lấy chồng” mà  “ đã thành điều thiêng liêng” “ Người của Chúa”. Cảm xúc đã từ con tim, hóa thành thơ, ấn tượng, mãi không phai nhòa.

Để khép lại bài viết, người viết xin được đôi dòng Vĩ thanh: “ Hơn 50 năm trước đây, tôi chưa có cái duyên làm học trò của Nhà giáo, thi sĩ Lê Đình Bảng, song được cái may mắn và vinh dự được ông chọn thơ, điểm thơ trên Bán nguyệt san Ngàn thông ở Sài Gòn khi tôi vừa chập chững con đường văn chương. Nay lại được “tri ngộ” ông qua thơ ông, xin được mạo muội “múa rìu qua mắt thợ”, mong được ông và độc giả lượng thứ, nếu có điều chi sai sót. Xin được vạn lần đa tạ và chỉ bảo...
 
Katy, TX October, 6/2024

TRẦN HOÀNG VY   
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…
Tôi sẽ nói gì về Phiến Hạ khi mùa hè chưa tới? Khi biển đã rộn ràng khơi nồng trong gió? Tôi có thể gợi khêu gọi nắng lên nhân quần khi lạnh gây vẫn u ẩn không gian? Có lẽ tôi sẽ mơ một khắc giây hội tụ, khát vọng liền tâm. Những mối dây xoắn gút cột thắt linh hồn. Ôi tôi mong bức đứt, chặt phăng mắt xích trói ghì...
Viết cho thế hệ trẻ là quan tâm lớn của nhiều nhà văn gốc Việt. Và mới trong tháng qua, nhà văn Trần Ngọc Ánh vừa ấn hành 2 bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp của tập hồi ký “Ba, Con Không Muốn Là Người Cộng Sản.” Bản dịch sang tiếng Anh do dịch giả Kim Vũ từ California thực hiện, nhan đề “Daddy, I don't Want to be a Communist.” Bản dịch sang tiếng Pháp do dịch giả Bảo Hưng từ Paris thực hiện, nhan đề “Papa, Je ne voudrais pas être communiste.” Cả hai bản dịch này ấn hành chung trong cuốn sách dày 184 trang. Bìa sách thực hiện bởi hai họa sĩ: Trần Nho Bụi và Phan Trường Ân. Một số tranh trong sách là từ họa sĩ Nguyễn Tư.
Có những cách để tưởng niệm 50 năm ngày Miền Nam tự do sụp đổ. Trong khi những cuộc hội thảo, chiếu phim, nhạc hội... do cộng đồng tổ chức sôi nổi khắp những tuần lễ trong tháng 4/2025, nhà văn Phan Nhật Nam và dịch giả Kim Vu có một cách lặng lẽ hơn: Dịch giả Kim Vu trong tháng Tư 2025 đã ấn hành tác phẩm tiếng Anh “The Sound Of A Suffering Land” – tuyển tập bản dịch 8 truyện của nhà văn Phan Nhật Nam.
Thơ mộng, uyên bác, thấu suốt Phật lý... Những dòng thơ của Thầy Tuệ Sỹ hiện lên trang giấy như các dãy núi nơi những đỉnh cao ẩn hiện mơ hồ giữa các vầng mây. Do vậy, dịch thơ Thầy Tuệ Sỹ qua tiếng Anh cũng là một công trình lớn, khi phải cân nhắc từng chữ một để giữ được cái thơ mộng, cái uyên bác, và cái nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường của một nhà sư thiên tài, độc đáo của dân tộc. Hai dịch giả Terry Lee và Phe X. Bạch đã làm được phần rất lớn trong việc giới thiệu thơ của Thầy Tuệ Sỹ cho các độc giả trong thế giới Anh ngữ.
Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
Nhà thơ, nhà báo Phạm Chu Sa đã tổ chức một buổi ra mắt hai tác phẩm trong vòng thân hữu tại tư gia của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần chiều Thứ Sáu 2/5/2025. Tập thơ nhan đề “Tình Không” -- ấn hành cuối đời, gom lại tất cả các bài thơ tình của nhà thơ trong đó có 36 bài thơ đã đăng trước 1975 trên các tuần báo Khởi Hành, Tuổi Ngọc và các tạp chí Văn, Vấn Đề... và nhiều bài thơ tình gần đây. Cuốn thứ nhì là hồi ức “Chuyện Làng Văn” về các mảng đời trước và sau 1975 của 50 văn nghệ sĩ mà tác giả có cơ duyên thân tình.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.