Hôm nay,  

Bản dịch Anh, Pháp từ Hồi Ký: Ba, con không muốn là người CS

06/06/202500:00:00(Xem: 2006)
TN-ANH-bia-sach

Bìa sách 

 
Viết cho thế hệ trẻ là quan tâm lớn của nhiều nhà văn gốc Việt. Và mới trong tháng qua, nhà văn Trần Ngọc Ánh vừa ấn hành 2 bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp của tập hồi ký “Ba, Con Không Muốn Là Người Cộng Sản.”

Bản dịch sang tiếng Anh do dịch giả Kim Vũ từ California thực hiện, nhan đề “Daddy, I don't Want to be a Communist.” Bản dịch sang tiếng Pháp do dịch giả Bảo Hưng từ Paris thực hiện, nhan đề “Papa, Je ne voudrais pas être communiste.” Cả hai bản dịch này ấn hành chung trong cuốn sách dày 184 trang. Bìa sách thực hiện bởi hai họa sĩ: Trần Nho Bụi và Phan Trường Ân. Một số tranh trong sách là từ họa sĩ Nguyễn Tư.

Nơi trang 3, tuyển tập song ngữ Anh-Pháp này được giới thiệu bằng một câu tiếng Anh, nơi đây chúng ta dịch là: “Truyện viết bởi một phụ nữ bị tù hơn mười năm cùng với đứa con của chị khi em bé này chỉ mới một tuổi.”

Nơi trang bìa sau của sách là trích lời tác giả Trần Ngọc Ánh, trong bản tiếng Anh, nơi đây dịch ra tiếng Việt như sau:

Bài học đầu tiên mà người cha Cộng sản của tôi dạy tôi là bài học về SỰ PHẢN BỘI. Nhân danh Đảng của ông, cha đã phản bội miền Nam, nơi đã nuôi dưỡng ông trong suốt thời gian ông theo Cộng sản và hoạt động bí mật cho sự nghiệp Cộng sản của mình.
Nhân danh Đảng của ông, cha đã phản bội người em gái, người đã nuôi con gái ông từ nhỏ. Dưới sự áp bức của chế độ mới, miền Nam trở nên nghèo đói và khốn khổ.

Tôi nghĩ rằng thanh niên Việt Nam ngày nay nên thấy rõ bản chất đen tối của Chủ nghĩa Cộng sản và hãy cố gắng xóa bỏ nó ra khỏi quê hương, để Việt Nam có cơ hội vươn lên trong Tự do và Dân chủ.”

Trong sách này, nơi trang 7-13 của ấn bản dịch song ngữ Anh và Pháp, các trang này ghi là Ngược Dòng, có duy nhất vài trang tiếng Việt của tác giả Trần Ngọc Ánh, trích từ cuốn hồi ký "Ngày Tháng Buồn Hiu", như sau:

"Ba tôi là một người Cộng Sản, ông đã tham gia cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp chống Mỹ, các chị em tôi lớn lên ở Sàigòn, nằm trong lòng "địch", cả nhà đều là những chiên sĩ xung kích trên khắp các mặt trận ở miền Nam cho đến ngày "giải phóng". Má thì nuôi giấu cán bộ Việt Cộng, các chị em thì làm giao liên... Sau 30/4/75, ba và chị tôi được đón về từ nhà tù Côn Đảo như những người vinh quang nhất trong ngày vui đại thắng, gia đình tôi là một địa chỉ đỏ của thành phố với nhiều huân chương kháng chiến chống Mỹ được treo đầy tường. Còn tôi, tôi đã vào tù với cái tội "chống- kháng- chiến-chống-Mỹ," sự đời có những điều trớ trêu và đau lòng trong cảnh nồi da xáo thịt! Câu chuyện kể ra thì dài, nhưng đại để như lời khai trong tờ lý lịch của ba tôi khi viết về tôi, "...do thời buổi chiến tranh gia đình ly tán, tôi gởi con gái tôi cho cô em nuôi ăn học, nay đất nước hòà bình, tôi mang con về sum họp."

Nếu chiếc lá chỉ rụng về cội thì có lẽ không có gì để nói, nhưng đằng này tôi lại không giống như những đứa con trung hiếu của ông, mà lại giống "ngụy" (bởi lẽ gia đình cô tôi trước kia là sĩ quan trong chế độ cũ) như lời phê bình của chị tôi - một cán bộ tuyên truyền:

"Con Ánh nó quen thói tiểu tư sản, tại Cô Sáu cưng chiều nó quá nên tính nết nó ngoan cố bướng bỉnh như vậy."
Và Ba tôi cũng nhận xét trong một buổi họp gia đình: "Tư tưởng còn lệch lạc, nặng về chủ nghĩa cá nhân, bản thân cần phải tích cực rèn luyện để phấn đấu tiến bộ v.v và v.v ..."

Có lẽ chính vì vậy mà ba tôi đã cố gắng để cải tạo đứa con ngược dòng của mình bằng hình thức kiểm điểm, bất cứ một hành động gì sai trái ở gia đình hay trong cơ quan, nghe phản ảnh lại là ba tôi bắt làm tờ kiểm điểm, kể cả những lúc vô tình hát vu vơ một khúc "nhạc vàng".... Nên suốt thời gian đầu về đoàn tụ gia đình, tôi không thấy có một ngày vui, chắc cũng không khác gì những binh lính chế độ cũ bị cưỡng bức trong lao tù Cộng sản, ăn cơm bo bo và bị viết miệt mài để nộp cho ba tôi những bản kiểm điểm dài ngoằng, như luận văn để được tốt nghiệp vào trường "Cách Mạng", dĩ nhiên mỗi lần như thế là tôi đã khổ sở đến độ nào!

Chỉ vài tháng công tác xã hội, sinh hoạt tập thể vớ vẫn, tôi đã được chọn để kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, điều này lại khiến tôi phản ứng dữ dội, chi đoàn méc về ba tôi và ông đã nổi giận thực sự, ông hét lên:

"Con có biết tại sao con được vào Đoàn không? Nhờ ba - nhờ lý lịch cách mạng của gia đình mình, con có biết mọi người vẫn mơ ước được đứng vào hàng ngũ vẻ vang này không, có những anh bộ đội đi suốt từ Bắc vào Nam để chiến đấu, đã đổ biết bao xương máu mà vẫn chưa được kết nạp, còn con, tại sao con không thấy được cái vinh quang đó?"

TN ANH va GS Nguyen Van Sam

Từ trái: nhà văn Trần Ngọc Ánh và phu quân là GS Nguyễn Văn Sâm nơi hiên nhà của phóng viên Phan Tấn Hải trong một ngày tưởng niệm 50 năm Miền Nam thất thủ.


Lúc ấy tôi đã cố bình tĩnh để nói với ba một câu khăng khái: "Thưa ba, chính vì con chưa đổ một giọt mồ hôi nào cho chế độ này, nên con không muốn trở thành người Cộng Sản!"

Không khí gia đình như nặng nề hơn kể từ khi có tôi hiện diện.

Cái khoảng cách mơ hồ nào đó giữa tôi và những người thân ngày thêm rộng dần ra, tôi càng chán nản hơn khi nhìn vào thực trạng xã hội của những năm đầu mới giải phóng, thành phố đầy những người thất nghiệp, hàng hóa khan hiếm, vật giá đắt đỏ, cuộc sống của từng gia đình bị đảo lộn bi thảm, tâm lý người dân luôn hoang mang giao động, có những sự mất mát không thể nào bù đắp được. Tôi nhớ đoạn nhật ký của cô em mới 13 tuổi lúc ấy:

"Bây giờ đến lớp buồn quá, bạn bè đứa nào cũng đòi bỏ học vì nhà nó nghèo, ba nó đi cải tạo, mẹ nó tần tảo không đủ ăn, mỗi lần vào lớp cô giáo hỏi ai là gia đình cách mạng, chỉ có mình rụt rè đưa tay lên giữa bao ánh mắt nhìn, tự dưng mình thấy kỳ kỳ, đâu phải tại mình mà ba nó đi cải tạo đâu, tại giải phóng chớ bộ..."

Không riêng con bé thấy kỳ kỳ mà cả tôi, cả bạn bè tôi nữa, chúng nó vài đứa cũng có hoàn cảnh giống như tôi: Ba đi tập kết trở về, gia đình đoàn tụ, tờ khai lý lịch được mở ra trang mới đầy sáng sửa, đi thì - được cộng thêm điểm, đi làm - chỉ cần gởi gầm các đồng chí là yên tâm ngay, mọi việc trong nhà ngoài phố đều êm xuôi thuận lợi... Và cũng không ít những đứa khác lận đận đủ điều bởi cái tội có người thân là ngụy. Tờ lý lịch trích ngang như bản cáo trạng giáng xuống hàng triệu con người những mức án khác nhau tùy theo mức độ tội lỗi của cha, của chồng, của con em đã từng tham gia trong bộ máy ngụy quân ngụy quyền cũ.

Bạn bè họ hàng đang thân thiết với nhau, tự dưng cái rào cản lý lịch làm cho mặc cảm mâu thuẫn, thành kiến thế này thế khác, anh em bà con khác chiến tuyến, bất đồng quan điểm chính trị cũng lạnh lùng lướt qua nhau vì sợ dính líu phiền phức, chưa kể những người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, lén lút cơm áo gạo tiền để gởi vô bưng tiếp tế cho cách mạng, khi xong chuyện, cách mạng đánh tư sản te tua sập tiệm, đang giàu có bỗng chốc thành kẻ khốn cùng, không một bàn tay nào dám đưa ra giúp đỡ sợ bị vạ lây.

Chủ nghĩa lý lịch nó khốn nạn thế đó!

Tôi lại nghĩ đến câu chuyện An Tiêm và những quả dưa đỏ (sự tích của thời còn nhỏ nghe Bà kể chuyện đời xưa) và bâng khuâng tự hỏi tại sao mình không thể có những vụ mùa bội thu mà không cần phép lạ, để chủ nghĩa lý lịch không còn cơ hội tồn tại, không là điều kiện tất yếu để quyết định công hầu khanh tướng cho bọn đương thời? Thực tế của cái thiên đường Xã hội chủ nghĩa đã làm tôi điên tiết chán chường, trong nỗi thất vọng phẫn nộ tôi không biết đặt niềm tin vào ai bây giờ ngoài cách viết nó ra cho đỡ ấm ức, thể là những trang "Nhật Ký Mực Tím" hình thành trong lao tù cách mạng, cái nhà tù lớn nhất của cả miền Nam từ sau tháng Tư đáng nguyền rủa ấy. Trong đôi mắt của một cô học trò tỉnh nhỏ như tôi lúc bấy giờ hoàn toàn không có một thế lực thù địch nào đứng sau lưng để xúi giục manh động, tôi viết ra tất cả những gì mà tôi biết, tôi thấy, khi sống trong chế độ giả trá có quá nhiều bất công và nghèo khổ nầy, sự cảm nhận có thể chủ quan nhưng không có nghĩa là không trung thực, khi vẽ nên bức tranh xám xịt phô bày thực trạng tệ hại của xã hội mà tôi đang từng ngày đối đầu với nó. Tôi đã viết trong nỗi xót xa bất lực của chính mình.

Cuốn nhật ký được chuyển ra Mỹ năm 1979 và được in làm nhiều kỳ trong tạp chí "Việt Nam Hải Ngoại" tại San Diego, California cùng năm.

Cuối cùng thì tôi thoát ly cái gia đình cách mạng của mình để trở thành vợ tên phản động. Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân của nó. Thật ra tôi cũng chẳng có tham vọng gì về chính trị, chỉ muốn sự công bằng và bình đẳng, đòi hỏi niềm hạnh phúc ấm no thực sự đến với mọi người. Ngay từ đầu, cái lý tưởng Cộng Sản của Ba tôi đã làm tôi thất vọng, thực chất nó chỉ là những giáo điều rỗng tuếch gian dối, Cộng sản đã lạm dụng cái từ lý tưởng để bơm căng bầu nhiệt huyết của chúng tôi khi họ nói "vận mệnh đất nước đang nằm trong tay các bạn trẻ hôm nay..." nhưng đằng sau đó là Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và nhân dân làm chủ.

Ôi! Những ông chủ tội nghiệp! Họ đang bị phá sản vì một xã hội tồi tệ với những khó khăn nghèo đói hàng ngày.

Sự lừa bịp trắng trợn đã làm tôi chán ngấy, và tôi nghĩ đó là mục đích để tôi quyết định dấn thân khi cùng chồng "Âm mưu lật đổ chính quyền Cộng Sản".
Tổ chức của chúng tôi bị tan vỡ khi mọi việc chỉ mới bắt đầu và hai vợ chồng đều bị bắt ...

Giai đoạn còn khai cung, tôi gặp một ông cán bộ già đã giảng cho tôi nghe bài học về luân lý khi ông ví tôi như công chúa Mỵ Châu, đã đem nỏ thần trao cho giặc, để nước phải mất, nhà phải tan, ngồi sau lưng An Dương Vương, bị Thần Kim Quy chỉ vào mặt "giặc ngồi sau lưng mi chứ giặc ở đâu?"
Nghịch cảnh nồi da xáo thịt quả là điều đau xót!

Ngay sau khi tôi bị bắt, Ba tôi đã nghiêm khắc từ con. Tôi không trách thái độ cứng rắn của ông bởi vì ông đã hành động đúng với tư cách một người Cộng Sản "Trung với Đảng, Hiếu với Dân, và chuyên chính với kẻ thù."

Mặc dù tôi biết Ba tôi cũng rất thương tôi, ông có cái lý của ông và tôi thì không thể chọn con đường nào khác...
Tôi muốn có những quả dưa đỏ như An Tiêm!
Những năm tháng ở trong tù, tôi nghĩ nhiều về những câu chuyện đáng buồn đã qua, thấm thía nỗi đau của sự mất mát, chồng tôi bị tử hình, và Ba tôi cũng qua đời sau cơn bệnh nặng. Người chết là hết, chẳng còn oán thù hay giận dữ ...
Rồi trong một cõi vô hình nào đó, Ba tôi và anh ấy sẽ gặp nhau, hai người sẽ nói với nhau điều gì về tôi, liệu ba có nói được câu "Ba rất tiếc!" như một nhân vật trong "Love Story" khi mọi việc đã muộn màng.
Vâng, thưa Ba - con cũng rất tiếc, hãy tha lỗi cho con.
(Trích trong cuốn hồi ký "Ngày Tháng Buồn Hiu" của Ngọc Ánh)" (hết trích)

Độc giả muốn tìm đọc sách này, xin email tới tác giả Trần Ngọc Ánh: [email protected]

Tập hồi ký rất cảm động. Sách này sẽ cho giới trẻ đọc tiếng Anh và Pháp một cơ hội nhìn thấy một phần lịch sử quê nhà, về chuyện thật, đời thật của tác giả Trần Ngọc Ánh. Rất hiếm khi độc giả gặp được một tập hồi ký đầy xúc động như vậy. Hãy mua sách này để tặng cho con em trong nhà, hay cho giới trẻ quan tâm về lịch sử rất thật và đau thương của dân tộc Việt những ngày sau tháng 4/1975.
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…
Tôi sẽ nói gì về Phiến Hạ khi mùa hè chưa tới? Khi biển đã rộn ràng khơi nồng trong gió? Tôi có thể gợi khêu gọi nắng lên nhân quần khi lạnh gây vẫn u ẩn không gian? Có lẽ tôi sẽ mơ một khắc giây hội tụ, khát vọng liền tâm. Những mối dây xoắn gút cột thắt linh hồn. Ôi tôi mong bức đứt, chặt phăng mắt xích trói ghì...
Có những cách để tưởng niệm 50 năm ngày Miền Nam tự do sụp đổ. Trong khi những cuộc hội thảo, chiếu phim, nhạc hội... do cộng đồng tổ chức sôi nổi khắp những tuần lễ trong tháng 4/2025, nhà văn Phan Nhật Nam và dịch giả Kim Vu có một cách lặng lẽ hơn: Dịch giả Kim Vu trong tháng Tư 2025 đã ấn hành tác phẩm tiếng Anh “The Sound Of A Suffering Land” – tuyển tập bản dịch 8 truyện của nhà văn Phan Nhật Nam.
Thơ mộng, uyên bác, thấu suốt Phật lý... Những dòng thơ của Thầy Tuệ Sỹ hiện lên trang giấy như các dãy núi nơi những đỉnh cao ẩn hiện mơ hồ giữa các vầng mây. Do vậy, dịch thơ Thầy Tuệ Sỹ qua tiếng Anh cũng là một công trình lớn, khi phải cân nhắc từng chữ một để giữ được cái thơ mộng, cái uyên bác, và cái nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường của một nhà sư thiên tài, độc đáo của dân tộc. Hai dịch giả Terry Lee và Phe X. Bạch đã làm được phần rất lớn trong việc giới thiệu thơ của Thầy Tuệ Sỹ cho các độc giả trong thế giới Anh ngữ.
Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.