Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Đọc Lê Lạc Giao: Dòng Đời

23/08/202408:18:00(Xem: 1579)
blank

Đọc Lê Lạc Giao: Dòng Đời
 

Phan Tấn Hải 
 

Tôi đã đọc bản thảo “Dòng Đời” khá là chậm. Đôi khi tôi đọc lại môt số đoạn, một số trang. Khi đọc lại toàn văn bản thảo lần thứ nhì, tôi lấy giấy ra ghi chú về các nhân vật, các mốc thời gian, những chuyển biến khi các nhân vật dời đổi từ bên dòng sông này qua thị trấn miền núi kia. Tất cả như một cuốn phim về một quê nhà đang tìm hướng đi trong thời kỳ hậu thực dân Pháp, nơi lối rẽ của tranh chấp để con sông trở thành đôi bờ và rồi người lái đò (trong tiểu thuyết này là người có tên là ông Ba Đò) trở thành người hai mặt, bị buộc cung cấp tin cho cả hai lực lượng thuộc hai ý thức hệ khác nhau.
 

Những gì hiện ra trước mắt, trong tâm tưởng của một độc giả như tôi, là một quê nhà đầy nước mắt, khi truyện kể dọc theo, trải qua ba hay bốn thế hệ, những người dân trong một xã hội bi thảm của thời thực dân Pháp, rồi tới sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trên trang giấy là một quê nhà tôi rất mực yêu thương được nhà văn Lê Lạc Giao kể lại những góc nhìn từ một thanh niên cùng thế hệ với tôi: sinh trước ngày đất nước chia đôi, nhìn thấy bạn bè một phần “nhảy núi” theo phe bên kia, và một phần khác đã tình nguyện ra trận để giữ gìn tự do cho miền Nam.
  

Nhân vật chính là Hiểu, chàng trai sinh bên dòng sông Cái của Nha Trang. Thân mẫu của Hiểu là cô Chanh, người sống với nỗi buồn khi thấy chồng là ông Xuân có vợ nhỏ và rồi đưa vợ nhỏ từ chợ Nha Trang lên Pleiku sống luôn. Thế rồi, cô Chanh đã xuất gia, trở thành một bà ni già tại một ngôi chùa trên một ngọn núi vùng Nha Trang. Hiểu thỉnh thoảng thăm mẹ, và thắc mắc tại sao mẹ lại chịu vào tu ở ngôi chùa lưng núi, nơi vị trụ trì là người thân với những người “cách mạng” trong núi. Mẹ Hiểu là người chơn tu, là người thuần tu, không bận tâm chuyện chính trị, muốn dứt bỏ thật xa những chuyện lao xao dưới các phố chợ của vùng Nha Trang.
 

Truyện mở đầu bằng hình ảnh của Hiểu tại vùng Nam California, khi Hiểu vào một quán cà phê, nghe giọng nói của một cô tiếp viên và nhận ra, giọng nói Hà Nội sau 1975 và cô có lẽ là một du học sinh. Lúc đó, Hiểu đã sống hơn ba mươi năm tại Hoa Kỳ. Hiểu về nhà trong nỗi cô đơn, cầm đàn lên và bất chợt hát... Tác giả Lê Lạc Giao kể: “...Hiểu hát một khúc nhạc nhưng đến lần thứ hai anh mới nhận ra mình đàn và hát. Bài hát Một Dòng Sông Xa Nguồn của người nhạc sĩ đã chết trong Tết mậu thân 1968. Vừa nghĩ đến tác giả, Hiểu như nghe lại tiếng ho của ông trong những đêm dài trước tết Mậu Thân.  Hiểu hồi tưởng những trăn trở thời chiến tranh trong đó thế hệ của anh đắm chìm trong bao đêm dài không ngủ! Sự bế tắc tâm thức con người lúc bấy giờ, biểu hiện cụ thể qua sự phung phí tuổi trẻ cho một thời điểm đậm nét phi lý, hư vô. Để rồi sau cuộc chiến tranh, bóng tối quá khứ nhuộm đen quãng đời còn lại của những nạn nhân và chứng nhân cuộc chiến tranh.”
 

Rồi truyện mở ra với cả một bầu trời chuyển biến của quê nhà, trải rộng qua ba hay bốn thế hệ, có lẽ là một trăm năm, từ thời ông Tước (ông nội của Hiểu), tới ông Xuân (thân phụ của Hiểu), tới Hiểu khi đang dạy học bị Tổng động viên năm 1972 để trở thành quân nhân biệt phái cho ngành giáo dục ở Miền Tây. Hiểu chứng kiến cuộc nội chiến qua hình ảnh các nhân vật liên hệ trong gia đình và trong làng xóm. Ông Tước chứng kiến lính Tây càn quét làng xóm, đốt làng. Ông Tước và thế hệ của ông trở thành những người hỗ trợ cho Việt Minh trong cuộc kháng chiến, chống thực dân Pháp, và khi đất nước chia đôi đã ước mơ sống trong hòa bình. Ông Tước nhìn thấy một số học trò võ năm xưa của ông bị lôi kéo vào núi để tham gia cách mạng, chống lại nền hòa bình của chế độ Việt Nam Cộng Hòa tân lập. Ông Tước nhận ra ngay cả sự trụ trì Tâm Quảng của ngôi chùa Tứ Chánh gần nhà ông lại là người hoạt động bí mật cho bên kia. Ông Tước sắp xếp cho Xuân vào khu chợ Nha Trang để Xuân không bị lôi kéo “vào núi” hoạt động. Thế rồi, trong khi kinh doanh xây dựng trong thị trấn, Xuân có vợ bé là một cô thợ may trong chợ Nha Trang, rồi Xuân dẫn cô lên Pleiku ở, nơi Xuân kinh doanh thành công với nghề xây dựng. 
 

Dòng sông gần nhà cậu bé Hiểu là nơi ông Ba Đò, người lái đò bị buộc phải lấy tin cho cả phe quốc gia và phía Cộng quân, mà họ tự gọi là Cách mạng. Kết cục bi thảm là khi ông Ba Đò bị níu kéo căng thẳng, đã rút khẩu súng K-54 ông giấu dưới một viên gạch ra tự bắn vào đầu tự sát.
 

Hiểu lớn dần theo những cuốn sách cậu đọc, và những mối tình học trò nhạt nhòa. Nhưng phần chính của truyện là dòng chảy của lịch sử. Kể về ông Mười Sách hành nghề pháp sư, rồi nghi thức thầy pháp kỳ lạ, rồi phát nguyện từ bỏ nghề thầy pháp, những hình ảnh mơ hồ, khó hiểu của tín ngưỡng dân gian. Truyện cũng kể về những bi thảm, như trường hợp xã trưởng Thắng bị quân VC nửa đêm về làng, lôi ra xử bắn.
 

Và Lê Lạc Giao ghi lại: “Ông Tước quen biết Thắng từ những ngày phong trào chống Tây và triều đình Huế. Ông kính trọng Thắng vì ông ta là một trí thức yêu nước, và quyết định của Thắng từ bỏ Việt Minh về thành, ông Tước không đánh giá phản bội như đám người trên núi. Nhưng ông Tước cũng không để đám người cách mạng lưu ý cách suy nghĩ ông. Đến hôm nay vì con trai, ông biết mình bắt đầu một cuộc đương đầu trong bóng tối với những kẻ ông tạm gọi là đồng chí một thời của mình.”
 

Trải rộng trong truyện dài của Lê Lạc Giao là các bạn của Hiểu, những người cùng thế hệ và các thiếu nữ quen thời đi học, từ Nha Trang tới Sài Gòn. Nơi đây là những hình ảnh gần nhất mà tôi cảm nhận, vì họ là những người trong thế hệ của tôi.
 

Như người bạn của Hiểu, say mê làm thơ, từ Miền Trung vào Sài Gòn học đại học, và quen với Hiểu ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Lê Lạc Giao ghi nhận: “Ngạc học Triết nhưng chuyên làm thơ và  điên cuồng mê thơ. Ngạc bảo có thơ thỉnh thoảng đăng trên tạp chí Văn học Sài gòn. Ngạc tỏ ra sành điệu ăn nhậu và hôm ấy uống đến ba chai bia 33 trong khi Hiểu hai chai đã thấy choáng váng muốn về…”
 

Nhưng tâm hồn thơ mộng của Hiểu đã có từ thời đi học bên các thôn ven bờ sông Cái. Và cậu học trò vương vấn hình ảnh về mái tóc của chị Chiêu, như tác giả kể: “Lần về mùa hè năm Hiểu học đệ ngũ, Chị Chiêu đi chợ ghé cửa hàng mẹ Chanh, và gặp đứa trẻ từ bé đã biết say mê một mái tóc thề mà về sau trưởng thành, Hiểu cho là biểu tượng quê nhà của một kẻ đi hoang, hay lạc loài ngóng vọng về những khi cô đơn nhất.”


 

Tuy nhiên, chị Chiêu học hơn Hiểu vài lớp, trong khi mối tình học trò đầu tiên của Hiểu là Nhạn. Tác giả ghi nhận: “Hiểu đến trước mặt Nhạn đặt tay  lên vai cô thật lâu. Nhạn im lặng, vai run lên và Hiểu lần đầu tiên nghe mùi tóc của Nhạn thật nồng và thơm. Hai người đạp xe về nhà. Đêm hôm ấy trước khi ngủ, Hiểu tự hỏi sao tóc của Nhạn có mùi thơm nồng nàn quyến rũ như thế!  Rồi thái độ của mình thế nào khi đặt tay lên vai của Nhạn? Mình muốn ôm Nhạn nhưng không dám. Mình mười sáu tuổi rồi, mình ở vào tuổi đàn ông khi đọc bao nhiêu sách nhắc nhở như thế.”
 

Một người tình học trò khác nữa của Hiểu là Cẩm, và nàng đã được ba mẹ đưa đi du học ở Đức quốc. Kể như là biệt xứ, nhưng hình ảnh lãng mạn của Cẩm thật khó quên. Lê Lạc Giao ghi lại hình ảnh của Hiểu khi lang thang đường phố Sài Gòn và nhớ Cẩm: “Hút đến điếu thuốc thứ ba Hiểu ra khỏi Pagode lang thang trên đường phố Lê Lợi. Anh vào hàng sách cũ, ngồi xuống lục lọi đống sách báo bày trên lề nhớ lại những ngày đi học. Sinh hoạt ồn ào nhộn nhịp của Sài gòn cho Hiểu thấy mình ngày càng xa xôi cái ốc đảo hạnh phúc, và có lẽ vĩnh viễn không bao giờ có lại được niềm an vui từ mối tình với Cẩm, hay những tháng ngày êm ả trong giảng đường đại học. Hiểu đứng lên lang thang qua các quầy sách cũ bìa vàng ố màu như tàn tích của một thời quá vãng mà anh từng cho là “nỗi buồn đau hạnh phúc” mỗi một khi cảm thấy cô đơn. Hiện giờ anh đang cô đơn khi đi qua quán cơm Thanh Bạch, rạp chiếu phim Vĩnh Lợi nơi từng in dấu hai người yêu nhau.”
 

Hay là hình ảnh bất chợt của một chiều mưa Sài Gòn: “Nhìn theo bộ váy ngắn trắng tinh và dáng vẻ cô gái tuổi học trò đệ nhất cấp, Hiểu nhớ đến cơn mưa bất chợt trên đường Nguyễn Thiện Thuật lúc ấy Hiểu mười bảy tuối và một cô bé nữ sinh mười lăm tuổi trú mưa dưới mái hiên của tiệm đàn Đức Thắng.”
 

Và hình ảnh nàng Hải Lan trong tim Hiểu. Lê Lạc Giao ghi lại: “Hải Lan nhỏ hơn Hiểu hai tuổi, đang học năm thứ hai Luật khoa, là sinh viên xa nhà ở trọ trên đường Nguyễn Trãi. Cha Hải Lan làm thư ký tòa hành chánh tỉnh. Là con gái duy nhất, cô muốn trở về quê nhà làm công chức như cha và đang chờ thi khóa phó đốc sự hành chánh. Hải Lan cho biết nhà hàng Thanh Đình của một người bạn cha cô, bất kỳ khi nào rảnh cô đều có thể đến làm việc kiếm thêm tiền. Hải Lan có thể ngồi thu tiền hay làm tiếp viên tùy nhu cầu của nhà hàng. Khi biết Hiểu đang là sinh viên sĩ quan đi chiến dịch nhưng vốn là một sinh viên văn khoa xa nhà trọ học như cô, Hải Lan vui vẻ như hai người quen nhau đã lâu.”
 

Tiểu thuyết “Dòng Đời” của Lê Lạc Giao là một cuốn phim nhiều góc cạnh. Không thuần túy là truyện kể về ba thế hệ trong dòng lịch sử quê nhà, nhưng cũng là những ký ức đau đớn và thơ mộng của Hiểu, một chàng trai không bao giờ già, người trải qua những ngày trưởng thành nơi thôn Bạch Hoa, nơi bàu Gáo, bên Cầu Đá, bên dòng Sông Cái, ngôi chùa Tứ Chánh… rồi tới Pleiku, Sài Gòn, Miền Tây và rồi xa rời quê nhà.
 

Ngòi bút Lê Lạc Giao trong tiểu thuyết này có vẻ như là một nhân chứng, nhưng chúng ta không nên hiểu chữ này theo một nghĩa pháp lý, bởi vì những dòng chữ trên giấy đã trở thành những dòng sông chữ nghĩa đang cuộn sóng ký ức, nơi đó đã cuốn trôi những ngày thơ mộng của các nhân vật, đã vùi dập ước mơ hòa bình của ba thế hệ, đã xóa nhòa những mối tình học trò rất ngờ nghệch và khó quên.
 

Tôi không muốn nói rằng tiểu thuyết này là hư cấu hay sự thật lịch sử của tác giả. Bởi vì sẽ rất nhiều độc giả tự nhìn thấy mình và người thân của mình trong tiểu thuyết này. Có thể thân phụ của bạn đã từng gia nhập Việt Minh thời chống Pháp, và rồi trở thành những người bảo vệ hòa bình cho các chính phủ Miền Nam. Có thể bạn đã từng học ở Sài Gòn, nơi bạn từng đi uống cà phê ở quán Hân, quán Bình Minh, ăn tiệm Thanh Đình, và những nơi tương tự như hình ảnh trong truyện. Có thể bạn cũng từng rụt rè nắm tay bạn gái  thời trung học và rồi nàng chợt biến mất… Có thể ngay trong gia đình bạn cũng có những người thân đứng nơi hai chiến tuyến. Cả một khung trời ký ức hiện ra trong tâm tôi, theo từng trang giấy của Lê Lạc Giao. Có lúc, tôi chợt muốn dịch ra tiếng Anh cho thế hệ trẻ đọc. Nhưng rồi tự thấy mình không kham nổi. Bởi vì, ngay khi viết bằng tiếng Việt, tôi cũng không viết được như Lê Lạc Giao, và rồi như thế sẽ là lạc điệu, nếu ra sức dịch sang tiếng Anh.
 

Tiểu thuyết “Dòng Đời” mang nhiều sức quyến rũ nhất trước giờ trong văn Lê Lạc Giao. Tôi đọc và tự thấy mình chìm vào, tắm gội trong chữ và trôi nổi trên các trang giấy. Tôi nghĩ rằng những dòng chữ trên các trang sách này là nước mắt của thế hệ chúng tôi, những người sinh ra ở Miền Nam vài năm trước khi đất nước chia đôi, và do vậy bị cuốn vào một cuộc chiến mà cha anh mình đã từng tham gia trong một hình thức nào đó, bên này hay bên kia, và rồi, thế hệ chúng tôi lên đường trong các đợt tổng động viên 1972 và 1973.
  

Lê Lạc Giao đã viết lên một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, đẹp rực rỡ, và cũng rất buồn, như một hình ảnh ghi trong truyện: “Có kẻ ra đi rồi trở về nhưng cũng có kẻ ra đi mãi mãi. Những dấu chân trên cánh đồng mênh mông ấy hằn sâu trong lòng Hiểu, cũng như bạn bè anh bao vết thương không bao giờ lành nỗi. Tuổi trẻ thời chiến tranh làm thế nào thực sự bình yên khi mà chia lìa luôn luôn đến trước những ước mơ!
 

Thế rồi nhiều người trong thế hệ chúng tôi may mắn thoát chết. Để nhiều thập niên sau, thấy lại một quê nhà hỗn loạn và yêu thương trên các trang tiểu thuyết Lê Lạc Giao. Một khung trời đau đớn và yêu thương của một thế hệ rất buồn. Nơi đó, một thời tôi đã trưởng thành từ các góc phố ngập nắng vàng, một thời đã ngồi học trong các lớp ê a bên những rặng tre, đã lang thang trên các hè phố thời sinh viên và tự thấy mình như các nhà thơ ưa nổi loạn của chủ nghĩa hiện sinh. Và là một thời thương nhớ bên một tà áo lụa giữa nắng Sài Gòn và giữa những dòng thơ viết dở dang.

---- California, tháng 7/2024.

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhận được cuốn tiểu thuyết Đường về thủy phủ của nhà văn Trinh Y Thư, nghiền ngẫm đọc mấy hôm và suy nghĩ viết đôi lời cảm nhận cho tác phẩm của ông...
Ngôn Ngữ đặc biệt về “tác giả tác phẩm”, cuốn này hân hạnh được giới thiệu đến quý bạn đọc, một cây bút tài danh đã viết và thành công trong hầu hết trong nhiều bộ môn văn học nghệ thuật qua bốn thập niên. Tác giả đó là nhà văn Trịnh Y Thư. Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, trưởng thành tại Sài Gòn, du học và hành nghề điện tử viễn thông tại Hoa Kỳ cho đến khi hưu trí vào năm 2018. Như đã thượng dẫn, Trịnh Y Thư là một người đa tài, chúng tôi xin giới thiệu đại khái về từng bộ môn ông đã sinh hoạt. Trong bộ môn văn, ông đã viết và phổ biến rộng qua sách in từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, khảo cứu, nhận định văn học, tùy bút, tạp bút, tạp luận. Với bộ môn thi ca, ông có một số ít bài theo phong cách vần điệu nhưng không cùn mòn. Chúng tôi nghĩ ông rất hứng thú và chuyên về trường ca, hoặc những bài viết có số lượng câu không quá ngắn hoặc quá dài, và ông cũng sử dụng cả lối thơ Hokku với chỉ 3 câu cho từng khổ.
Trong số truyện ngắn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” trong tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc có lẽ là tác phẩm được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Dựa trên câu chuyện cơ cực có thật của chính gia đình mình trong thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp, Doãn Quốc Sỹ đã kể lại với một cách nhìn nhân bản, kết thúc với đoạn văn được những người hâm mộ trích lại nhiều nhất: “…Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành…”
"Dòng Đời", tác phẩm thứ sáu của nhà văn Lê Lạc Giao, lấy cảm hứng từ sự tuôn chảy của một dòng sông để phác họa nhiều dòng chảy khác sâu kín, phức tạp, đa chiều trong nội tâm của Hiểu, nhân vật chính trong tiểu thuyết. Hiểu lạc trôi theo vận nước, bước qua những tàn tích của lịch sử, qua những bóng ma quá khứ, những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng để tìm lại bản thân, hội nhập, đối diện với những thử thách mới trong hiện tại và tương lai.
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
“Ai là tiểu thuyết về sự mất tích của bản thể, của những con người, trên sân khấu của đời sống như một viện bảo tàng. Ai ngẫu nhiên được hình thành như bản tẩu pháp (fugue) về hành trình trốn chạy, lưu vong, tỵ nạn, hoá thân của con người trong thời hiện đại. Ai là sự kết hợp các hình thức sáng tạo trong tiểu thuyết như phim ảnh, tường thuật, truyện lồng trong truyện (metafiction), để tạo một không gian cho các ý niệm phản chiếu lẫn nhau, trong màn triển lãm nghệ thuật sắp đặt (installation) dùng ý tưởng. làm chất liệu. Ai mở ra sân chơi cho trò chơi ngôn ngữ đang cần khai phá thêm và khai quật lại. Ai là một thử nghiệm về thời gian để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời cho họ.”
Tập truyện ngắn “Chuyện cũ phù dung trấn” ( CCPDT), là tác phẩm thứ 16 của Tiểu Lục Thần Phong ( TLTP ). Sách dày 362 trang, gồm 36 truyện ngắn, với những suy tư trăn trở về cuộc sống nơi quê nhà và cả nơi xứ xa, mà tác giả hiện đang sinh sống. Thấm đẫm những hiện thực của cuộc sống và gắn kết cả chuyện đời, chuyện đạo, gây ấn tượng và những suy ngẫm cho bạn đọc...
Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết thương làm mủ của lịch sử..
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.