Hôm nay,  

Thi tập “NGỤC TRUNG MỊ NGỮ” – Thơ Tuệ Sỹ

01/01/202316:57:00(Xem: 2402)
tuesy

Trân trọng giới thiệu thi tập “NGỤC TRUNG MỊ NGỮ” – Thơ Tuệ Sỹ.


Quyển thơ có 18 bài trong 50 bài được thầy Tuệ Sỹ viết bằng Hán tự trong thời gian bị bắt giam lần thứ nhất hơn 2 năm (1978-1981).  


blankblank


blank


Tuy có 18 bài thơ nhưng sách dày 200 trang, gồm có:


- 18 bài Hán thi, bút pháp của Thiền sư Takaoka Shucho trụ trì chùa Đức Lâm ở Nagoya, Nhật Bản.

- 18 bài thơ Hán văn; 18 bài chuyển âm Việt; 18 bài dịch nghĩa.

- 18 bài thơ Anh Ngữ do nhà thơ Nguyễn Phước Nguyên dịch.

- 18 bài thơ Việt ngữ do thầy Nguyên Hiền dịch.

- 18 bài thơ Nhật Ngữ do giáo sư Bùi Chí Trung dịch.

- Phần đoản văn” Xoay Quanh Chữ Nghĩa Ngục Trung Mị Ngữ” của Bùi Chí Trung và thầy Tuệ Sỹ trong thời gian ở Nagoya. 


blank


blank
Thầy Tuệ Sỹ & Giáo sư Bùi Chí Trung.

… Trong thời gian dịch chùm thơ Thiên Lý Độc Hành (xuất bản năm 2020) ra tiếng Nhật, đôi khi muốn thay đổi ý tưởng nên tìm đọc một số bài thơ của Thầy Tuệ Sỹ trên sách hay internet, tình cờ thấy một vài bài thơ chữ Hán khi Thầy ở trong tù, dùng chữ đơn giản nhưng ý thâm sâu, đã được dịch và giới thiệu ra tiếng Việt hoặc tiếng Anh, nhưng chưa thấy sát ý lắm, một phần bởi tính cách hàm súc của chữ Hán, chữ ít mà ý nhiều, và khi dịch ra thơ cũng có những chỗ càng thêm xa nguyên ý.


Tôi vào internet dò tìm ra được khá nhiều dữ liệu giới thiệu những bài thơ này, đầy đủ nhất là bản PDF “Thơ Tuệ Sỹ” do Quảng Hương Tùng Thư và Ni Sư Tuệ Hạnh phát hành ở Texas năm 1988, trong đó có mười tám bài thơ chữ Hán “Ngục Trung Mị Ngữ” với thủ bút do chính Thầy viết lại sau khi ra tù. Rất tiếc là còn hơn ba mươi bài nữa không biết thất lạc nơi nao, Thầy thì không thể nào nhớ lại hết được. Mong có ngày nào những bài thơ này được tìm ra, xin liên lạc đến Thư Quán Hương Tích, trả về cố chủ và giới thiệu cho mọi người, để tập thơ “Ngục Trung Mị Ngữ” được trọn vẹn thơ được trùng phùng và thơ lại gặp thơ. 


… Gom góp mười tám bài thơ đó đưa Thầy xem, Thầy nói có vài chữ không chính xác lắm, cũng cần phải chỉnh sửa đôi chút; thế là tôi đánh máy lại và phiên ra âm Việt những bài thơ này, đã cùng hội ý và sửa lại theo ý Thầy. Sau những lần được Thầy giảng nghĩa các bài thơ, tôi viết lại phần dịch nghĩa tiếng Việt ra văn xuôi và xin phép Thầy được cùng với nhóm biên soạn tập thơ Thiên Lý Độc Hành thực hiện phát hành tập thơ này.


Trước tiên là cần tìm người dịch ra thơ tiếng Việt. Theo lời Thầy Tuệ Sỹ, Thượng toạ Nguyên Hiền là người dịch thơ Hán Việt rất chuẩn và hay. Thầy đã trực tiếp nhờ dịch. Thầy Nguyên Hiền rất hoan hỷ nhưng vì trong hai năm qua, nhà chùa có nhiều công tác khẩn cấp hơn nhất là cứu trợ chẩn tế các đồng bào gặp khó khăn ảnh hưởng dịch Covid nên công việc dịch thơ bị chậm trễ. Thế là dịch này làm phiền dịch kia vậy.


Lúc đầu chỉ dự định dịch ra thơ Việt xong phổ biến nhưng trao đổi ý kiến với nhóm biên soạn thì quyết định dịch thêm ra tiếng Anh để sẽ có thêm nhiều độc giả ở nước ngoài, nhất là với thế hệ lưu vong thứ hai thứ ba của cộng đồng người Việt hải ngoại, và sau này còn có thể làm tài liệu nghiên cứu văn học Việt Nam cuối thế kỷ hai mươi đầu hai mươi mốt.


Khi trình bày ý định dịch thêm tiếng Anh, Thầy nói thế thì dịch luôn ra tiếng Nhật đi, có sẵn người dịch rồi và nhất là vì cùng văn hoá chữ Hán và ảnh hưởng Phật giáo nên dịch từ chính xác hơn tiếng phương Tây. Vì vậy tập thơ này có thêm phần dịch Nhật ngữ.


Năm nay Thầy Tuệ Sỹ sắp bát tuần, tuy sức khoẻ có phần yếu đi nhưng hằng ngày Thầy vẫn đều đều làm việc như dịch kinh sách, biên soạn và giảng Pháp. Ở Nhật tuổi tám mươi gọi là Tán thọ 傘寿vì trong chữ tán khi viết đơn giản làcó chữ bátvà chữ thập, mong tập thơ này sẽ là quà tặng dâng Thầy bát tuần.


Thủ bút chữ Hán là do Hoà thượng Takaoka Shucho (高岡秀暢), trụ trì chùa Đức Lâm (徳林寺Tokurinji) tại Nagoya, Nhật Bản viết tặng. Thiền sư Takaoka cũng ngang tuổi với Thầy Tuệ Sỹ, từng tu học ở Nepal và đã đi thăm Việt Nam nhiều lần. Hiện tại chùa Đức Lâm có một đại hồng chung được đúc ở Huế mang về đang được sử dụng trong Phật sự hằng ngày ở chùa.


Bản chữ Hán mỗi bài thơ được viết hai bản, một trên giấy Lokta đem từ Nepal về và một trên Washi (和紙) giấy thủ công của Nhật (giống giấy Dó của ta nhưng rất mịn và bền thường được sử dụng viết kinh sách ngày xưa). Sư phải tập trung tinh thần rất nhiều, tập viết thử nhiều lần trước, và sau đó dành trọn ba ngày đóng cửa tắt điện thoại để khỏi phân tâm mà viết một loạt ba mươi sáu bài thơ chữ Hán trên hai loại giấy. Cảm tạ Sư Takaoka thật nhiều đã giúp cho tập thơ thêm giá trị nghệ thuật.


Tập thơ này có cả thảy mười tám bài, mới đầu đọc thì không để ý nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần thì cảm nhận được từng bài có thứ tự trước sau, tâm sự của Thầy lúc mơ mộng lúc chán nản lúc trầm lặng lúc dâng cao. Ngẫu nhiên hay vô tình, tôi cảm thấy giống một bản giao hưởng.


Chương một (First Movement) mở ra cảnh lao lý cô đơn nhưng vẫn tự tại, tâm sự với người bạn trung thành là cái bóng mình. Sau đó nhắc đến những sinh hoạt hằng ngày từ việc đi vệ sinh cho đến bữa ăn, trước khi thọ trai, cúng dâng Chư Phật rồi đến thầm cám cảnh mong thế gian mau hết hận thù. Những ngày tù vô vị đằng đẵng nối tiếp, nhất là cảm thấy bất lực trước công việc cần thiết nhưng dở dang, bắt đầu thấy hơi tuyệt vọng chỉ biết gởi gắm tình mình qua mấy vần thơ, thơ tuyệt mệnh, tơ lòng cắt đoạn rải trời xanh.


Như khúc nhạc giao hưởng sau Chương một Sonata mở đầu câu chuyện, đến Chương hai biến tấu kể lể tâm tình. Bắt đầu từ bài “Dạ toạ” là vào Chương ba Menuet, tự nói chuyện hằng ngày nhưng là những hoang mang thêm chút bất an, có chút lo lắng về sau; nửa đêm thức giấc nhớ chùa nhớ sư mong một ngày về. Và không chỉ nhớ khi thức dậy mà trong giấc mộng cũng nhớ nhung, nhớ chùa, nhớ Thiền hữu đến nỗi lo rằng chẳng còn ai chờ mình về, sân chùa vắng vẻ đìu hiu chỉ còn cây khô rêu mọc. Ngủ đêm nằm mộng cũng chưa đủ đến ngủ ngày cũng nằm mơ. Đêm ngày gì cũng thấy tương lai mình mờ mịt mọi chuyện đều là huyễn sự cả. Rối ren trong lòng tự hỏi tại sao mình lại ra đến nông nỗi này? Tâm và cảnh đối chọi dằng kéo nhau. Và cả đến những quỉ ma quấy rối kinh thiên động địa làm nghiêng đổ cả núi Nam ngăn trở mục tiêu tu tập của mình.


Tới đây là bắt đầu Chương bốn, chương cuối cùng của nhạc khúc, điệu luân vũ quay tròn quay tròn nhưng càng về cuối càng hùng tráng và hưng phấn lên. Đoạn đầu nhắc lại ý thức trong tâm đây là mộng hay là thật, mộng và thật thay phiên nối tiếp nhau nhưng khi tan mộng thì đớn đau, ngây ra vén mi thương tiếc giấc mộng giang hồ. Đã đến đỉnh tột cùng tuyệt vọng tiếc cho những ngày dài học Đạo mà chưa giúp được gì cho Đời, ngẫm nghĩ chuyện luân hồi thôi đành buông tay khỏi vách núi thì may ra mới đạt được “Chân Như”. Nhưng có thật thế không nhỉ? Khi qua đỉnh tuyệt vọng thì mầm hy vọng lại đến. Dù hoàn cảnh khó khăn mấy đi nữa nhưng tịnh tâm thì nỗi nhớ nào cũng qua, nhìn ráng chiều mà nhớ người phương xa. Cuối cùng là giác ngộ, tự mình có thể cười mình, sống với cái mình đang có và đang sống.


Viết gần xong tôi cũng bỗng dưng nhớ tới bản “Giao hưởng dở dang số 8” của Schubert, lặng một chút, thì thầm điệu nhạc trong đầu; rồi lại nhớ đến khúc “Giao hưởng dở dang số 10” của Beethoven còn một vài chỗ chưa hoàn thành trong mỗi Chương như những bài thơ thất lạc chưa tìm được, thiếu sót của tập thơ này, thêm nữa Beethoven còn khúc giao hưởng số 5, ở Nhật thường có đặt thêm nhan đề là “Vận mệnh” có lẽ gần với hoàn cảnh của Thầy; “Dở dang”, “Vận mệnh”, là những điều xoay quanh trong đầu tôi khi đọc hoặc nghĩ đến chùm thơ Ngục Trung Mị Ngữ. [Bùi Chí Trung].


*


Phần thoại ngữ trao đổi giữa thầy Tuệ Sỹ và Nguyễn Phước Nguyên trong thời gian chuyển ngữ.


blank
Nhà thơ Nguyễn Phước Nguyên.


... Chuyển ngữ những bài thơ mình thích là một niềm vui, một đam mê.


Chuyển ngữ những bài thơ mình thích của một người thơ mình kính quí, là một hân hạnh.

Làm được hai điều, và cùng lúc, được tương trao cảm niệm với người thơ đó – thật, là hạnh phúc hiếm hoi.


Đây là cảm xúc duy nhất còn lại trong tôi, sau khi phiên bản tiếng Anh của 18 bài thơ trong Ngục Trung Mị Ngữ đã được hoàn tất, đồng thuận, và gửi đi.


... Và mãi mãi ... [Nguyễn Phước Nguyên]


Riêng phần hình ảnh thầy Tuệ Sỹ là những khoảnh khắc lưu giữ lại thời gian thầy ở “Thị Ngạn Am” chùa Già Lam vào năm 2002, chuyến đi thăm làng Nghệ Sỹ, quận 2 năm 2004, và thời gian ở Thiền viện Đức Lâm, Nagoya năm 2020 trong máy ảnh của Đào Nguyên Dạ Thảo.


Sách đã được 

CULTURE ART EDUCATION EXCHANGE RESOURCE

và Đào Nguyên Dạ Thảo xuất bản, phát hành tại Mỹ

Sách in màu bìa mềm giá bán: US$40.00 - bìa cứng giá bán: US$50.00

Liên lạc qua địa chỉ email sau:
daodathao@yahoo.com

hoặc inbox qua facebook messenger của DaoNguyen DaThao

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… dặn để đọc mấy ngày Tết. Tôi nghĩ: chắc là Im Lặng thở dài… đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (TCS)? Nhưng không. CHT không thở dài! Anh nói về “thiêng liêng” về “chia tay mà không biệt ly của cánh hoa rơi”…
“Chỉ là nỗi đam mê” (Passion Simple, 1991) là một trong số gần 30 tác phẩm của nhà văn nữ người Pháp Annie Ernaux, người vừa được Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao tặng giải thưởng Nobel về Văn Chương 2022...
Trong tuần qua, nhà thơ Trịnh Y Thư vừa phát hành một sách mới nhan đề “Căn Phòng Riêng,” dịch từ nguyên bản tiếng Anh, Virginia Woolf, A Room of One’s Own, nxb Harcourt, 1991. Theo lời dịch giả Trịnh Y Thư, ấn bản 2023 của bản dịch để phổ biến ở hải ngoại là bản được sửa chữa và tăng bổ từ hai ấn bản đã in trong các năm 2009 và 2016 tại Việt Nam. Tập tiểu luận văn học này của Virginia Woolf (1882-1941) như dường trải qua gần 100 tuổi, vì sách ấn hành lần đầu là năm 1929, nhưng các vấn đề nêu lên đều rất mới, như vị trí người cầm bút nữ chỉ là bóng mờ trong ngôi làng của các nhà văn, hay yêu cầu của Woolf rằng người sáng tác phải lìa hẳn “cái tôi” khi cầm bút, hay người sáng tác văn học cần có “khối óc lưỡng tính [nam/nữ]” (nghĩa là lìa cá tính, hay lìa ngã thể?) -- nghĩa là tất cả những gì rất mực táo bạo đối với người sáng tác văn học Việt Nam.
Thu hút sự chú ý của công chúng về tính quyết định của thời điểm lịch sử hiện tại, Ahmed giới thiệu một lý thuyết phê bình về giải phóng xã hội dựa trên các phong trào cách mạng hậu Xô Viết đã nổi lên bên lề trật tự xã hội toàn cầu. Sự gia tăng của các phong trào loại trừ xã hội và chính trị ở nhiều nơi trên thế giới, khủng hoảng sinh thái đang diễn ra, phân biệt chủng tộc chống người Da đen và sự cụ thể hóa của sự tuyệt vọng do đại dịch COVID-19 mang lại đòi hỏi một cách tiếp cận mới đối với cuộc cách mạng, mà Ahmed lập luận, phải được bắt nguồn từ kinh nghiệm của những người bị áp bức nhất trong xã hội.
Nói chung "bật khóc" vì nhiều lý do …. Trước khi đề cập chi tiết hơn về bài thơ tôi mạn phép giới thiệu sơ về Lão Thi Sĩ Trần Công. Theo internet thì tác giả người Gò Công, từng là Trung Tá Cảnh sát Quốc Gia Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và hiện định cư tại Hoa Kỳ.
Suốt thời gian gần trăm năm qua, từ ngày xuất bản năm 1929, cuốn Căn phòng riêng của Virginia Woolf vẫn được xem là tập tiểu luận văn học có tầm ảnh hưởng rất lớn bởi tính cách đặt vấn đề của nó. Nó là cuốn sách được nhật báo Le Monde của Pháp quốc xếp hạng thứ 69 trong số 100 cuốn sách hay, giá trị, đáng đọc nhất thế kỷ XX. Kỳ thực, nó là cuốn sách đặt nền móng cho Nữ quyền luận trong hai lĩnh vực tư tưởng và phê bình văn học. Cuốn sách được hình thành dựa trên loạt bài thuyết trình Woolf đọc trước cử tọa toàn phái nữ tại hai trường cao đẳng dành riêng cho phụ nữ, Newham và Girton, thuộc trường đại học danh tiếng Cambridge của Anh quốc, vào năm 1928, xoay quanh chủ đề “Phụ nữ và sáng tác văn học.”
Cuốn tiểu thuyết này mổ xẻ tình bạn mãnh liệt giữa hai cô gái mười ba tuổi, Agnès và Fabienne, ở vùng nông thôn nước Pháp thời hậu chiến. Họ tự tin mình “đủ tuổi để làm mọi thứ”, họ bão hòa sự nhàm chán bằng những kế hoạch càng ngày càng phức tạp. Fabienne bắt đầu đọc những câu chuyện kinh dị cho Agnès, và sau đó thiết kế ấn phẩm của họ dưới tên của Agnès. Agnès được tôn vinh là một đứa trẻ thần đồng và cuộc đời cô bắt đầu một quỹ đạo mới. Câu chuyện mở ra khi Agnès nhìn lại, bây giờ cô đã 27 tuổi và sống ở Pennsylvania, nghe tin Fabienne chết. Những hồi ức của cô ấy về tình bạn và sự phấn đấu của cô với sự nổi tiếng, được kể lại tự nhiên theo giọng điệu thanh tao, được nhấn mạnh bằng những mô tả sắc bén về niềm tin của tuổi vị thành niên.
Bất ngờ, tôi mới nhận ra rằng GS Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ. Bởi vì một thành kiến tôi có từ lâu, một học giả thường không làm thơ. Trước giờ tôi vẫn nghĩ rằng GS Nguyễn Bá Chung là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, và là người dịch sang tiếng Anh nhiều bài thơ thời Lý, Trần và thời Lê, Nguyễn --- và đó là những gì tôi từng chú ý nhất, khi đọc hai bản Anh dịch của họ Nguyễn: tập “Ly Tran Zen Poems” (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007) và “Le Nguyen Zen Poems” (nxb Hội Nhà Văn 6/2019). Lúc đó, tôi không chú tâm về những sách khác do GS Nguyễn Bá Chung (NBC) dịch, như tiểu thuyết, truyện, thơ… Và rồi một bất ngờ, khi tôi khám phá ra Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ rất mực lãng đãng Thiền học, thơ mộng tột vời.
Nhân đọc tập thơ Tiểu Khúc của Tôn Nữ Thu Dung, Tương Tri xuất bản.
Chúng ta chỉ ngưng lại một khoảnh khắc để hình dung ra mùa Giáng Sinh và năm Mới sắp tới này ở đất nước Ukraine sẽ như thế nào? Có bao nhiêu cha mẹ mất con, bao nhiêu em bé mất cha mẹ, có bao nhiêu phụ nữ mất chồng. Sẽ không có quà tặng, không có thành phố chăng đèn, không tiếng cười, không hoa, không nến… Vẫn có tiếng súng, tiếng nổ và thật nhiều tiếng khóc của các bà Mẹ, người vợ, người chồng, trẻ em…
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.