Hôm nay,  

Những Câu Chuyện Bà Kể

24/01/202500:00:00(Xem: 1201)

Hoang Tu Be
Một minh họa trong sách Hoàng Tử Bé.
 
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể.

Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.

Rồi thì bà kể chuyện. Từ khi chú bé chưa biết nói, bà đã kể chuyện rồi, những câu chuyện rất ngắn, rất dễ thương, có khi chỉ là tiếng chim hót, tiếng gà gáy. Chú bé tỏ vẻ lắng nghe. Và lớn dần, chú bé nghe những câu chuyện dài hơn, và chú hiểu. Chú còn biết kể lại cho bà nghe, biết hỏi lại cho bà trả lời. Những câu chuyện bà kể, luôn bắt đầu bằng câu “ngày xửa ngày xưa” như một dấu hiệu đó là truyện cổ tích.

Trong trí nhớ của bà, cũng như nhiều người bạn cùng thời, truyện cổ tích nổi bật nhất là Tấm Cám. Bởi vì bà đã được nghe biết bao nhiêu lần từ mẹ của bà. Mẹ là một kho truyện cổ tích. Nhưng cứ nghe đến đoạn cuối thì bà rất sợ. Bà hứa với lòng rằng sẽ không kể nguyên như vậy cho con cháu của mình. Cô Tấm trong truyện là một cô gái nhân hậu, chịu biết bao gian truân vì mẹ ghẻ và em gái độc ác hại mình. Cuối cùng, khi Tấm được Vua cưới về, cô lại dùng quyền lực để trả thù họ một cách ác độc gấp trăm lần. Bà đã thay đổi đoạn cuối. Bà “cho” cô Tấm xin Vua tha cho họ, rồi cô cảm hóa họ, giúp họ trở thành người tốt, có lòng nhân hậu giống như cô.

Lúc chú bé bốn tuổi, bà kể Cha Nào Con Nấy, câu chuyện dạy người ta sống hiếu thảo với cha mẹ. Chú bé ngồi vào lòng bà, nghe say mê, bởi vì trong truyện cũng có một đứa bé bốn tuổi. Cha của đứa bé ấy đã mài một cái mủng vùa, tức phân nửa cái sọ dừa khô, cho ông nội của nó ăn cơm, bởi vì ông nội đã già, đến bữa ăn thường làm rơi vỡ chén bát. Ông nội tủi thân, vừa ăn vừa khóc. Thế rồi đến một hôm, người cha thấy đứa bé vụng về mài một cái mủng vùa, hỏi để làm gì. Đứa bé nói để dành cho cha ăn cơm, khi cha già như ông nội vậy. Cha của nó bừng tỉnh, hối hận. Nghe xong, chú bé tỏ vẻ trầm ngâm. Bà hỏi:

“Con có gì không hiểu?’
Chú bé nói:
“Bà ơi, bây giờ không sợ bị bể chén đâu bà!”
“Vì sao?”
“Con thấy chén nhựa có in hình bông hoa cũng đẹp lắm, mình ăn có làm rơi cũng không sợ bể.”
Bà không nhịn được cười.
“Ừ nhỉ, cuộc sống có những cái rất dễ giải quyết. Nhưng ngày xưa, nhất là ở thôn quê nghèo khó, rất khác, con ạ.”

Hai bà cháu tạm quên câu chuyện đó, vì chú bé lại đòi bà kể chuyện khác ngay.

Bà có một kho truyện cổ tích. Chỉ riêng truyện cổ tích Việt cũng đã rất nhiều rồi, nhiều vô cùng, kể cả tháng cũng chưa hết. Nhưng bà gạn lọc, chọn một số truyện để kể cho chú bé, như Ăn Khế Trả Vàng, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh, Sự Tích Quả Dưa Hấu, Sự Tích Bánh Chưng Bánh Dầy, Thánh Gióng, Cây Tre Trăm Đốt, Sự Tích Con Muỗi, Sự Tích Con Thạch Sùng v.v… Bên cạnh đó, bà cũng chọn lọc những truyện cổ tích Tây phương, như Cô Bé Lọ Lem, Công Chúa Ngủ Trong Rừng, Đôi Hia Bảy Dặm, Bạch Tuyết Và Bảy Chú Lùn, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ v.v…

Bây giờ, chú bé đã lên mười. Đi học về, cơm nước xong, bài vở học rồi, gần đi ngủ chú bé vẫn thích nghe bà kể chuyện. Có những câu chuyện chú bé nghe cả trăm lần vẫn thích, và biết bình luận nữa, đôi khi làm bà phì cười, nhưng cũng lắm lúc khiến bà nghĩ ngợi. Đúng vậy, trẻ con không phải cứ nhét vào tai là chấp nhận. Mỗi một thời kỳ, mỗi một hoàn cảnh sống, ảnh hưởng rất nhiều đến cách suy nghĩ của con.

Lên mười, chú bé được nghe bà kể những truyện ngụ ngôn của Jean de La Fontaine. Bà nói những truyện ngụ ngôn ấy, bà đã được học ở trường, không phải do truyền miệng. Chú bé say mê nghe những chuyện Cô Hàng Sữa, Con Ve Và Con Kiến, Hội Đồng Chuột, Con Nhái Muốn To Bằng Con Bò v.v… Chú bé thích nhất là thấy những con vật đã được mô tả như con người, biết nói, biết suy nghĩ, biết cư xử. Bà bảo những con vật đã được “nhân cách hóa” để mang lấy những tính nết của con người, đó là lòng tham, sự ích kỷ, tính ham chơi, sự cần cù làm việc, lòng thương yêu v.v… Lên mười, chú bé đã có thể hiểu được hàm ý trong những câu chuyện như vậy.

Lên mười! Cái tuổi tưởng như còn bé dại, thật ra là dấu mốc của sự chuyển mình. Bà còn nhớ, lúc bà lên mười, đã ngâm thuộc lòng bài thơ Lửa Từ Bi của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, bài thơ có hơn ba trăm chữ. Mọi người trong gia đình bảo bà là con-bé-già-trước-tuổi. Có lẽ đúng. So với các bạn nhỏ cùng tuổi, bà có “già” thật! Và so với chú bé lên mười này, chắc bà ngày đó còn “già” hơn gấp bội. Bởi vậy, bà tự nhủ đừng bao giờ làm điều gì với con trẻ dựa vào chính mình ngày xưa. Thời đại đổi khác, cảnh sống đổi khác, và mỗi một con người cũng đặc biệt. Không có ai giống ai.

Chú bé cháu của bà vẫn cứ mê nghe nhạc và mê nghe kể chuyện. Cái đầu óc biết phân tích khiến chú bé hay hỏi những câu như:

“Bà ơi, sao gọi là truyện cổ tích?”

“Cổ là xưa, tích là dấu vết, là truyện. Cổ tích là dấu vết xưa, hay truyện xưa, nên người ta hay nói “ngày xửa ngày xưa” tức là những chuyện xảy ra đã lâu thật là lâu, khi mình chưa có mặt trên đời.”

“Bà ơi, trong truyện cổ tích, vật gì cũng biết nói hở bà?”

“Ừ, thường là vậy. Truyện cổ tích thì phải là những gì đã xảy ra từ rất xưa, trong đó con người, con vật như chó, mèo, hổ, sư tử, chim chóc… và cả cây cỏ cũng biết nói, con ạ.”

“Và có những ông tiên, bà tiên làm phép giúp cho mọi vật hở bà?”

“Ừ, như Ông Bụt trong truyện Tấm Cám, hay bà tiên trong truyện Lọ Lem đó!”

“Vậy ai đặt ra truyện cổ tích hở bà?”

“Ừ… thì là… người ta đặt ra.”

“Nhưng người ta đâu có sống vào lúc chuyện đó xảy ra hở bà? Nếu có, thì đối với người đặt ra, nó chẳng phải là truyện cổ tích.”

Chà, chú bé lắt léo, lý sự thật! Bà ngẫm nghĩ, nhưng bà công nhận chú bé đúng. Vậy rồi bà và cháu cũng kể đi kể lại những truyện cổ tích, kèm theo lời bình của chú bé lên mười. Kể đi kể lại hoài, mãi rồi không phân biệt truyện tây, truyện ta, vì nội dung và tình tiết khá giống nhau, như Tấm Cám và Cô Bé Lọ Lem vậy. Hoặc như những truyện ngụ ngôn của La Fontaine, qua lời dịch tài tình của Học giả Nguyễn Văn Vĩnh, đã trở thành quen thuộc như thể là chuyện kể của người xứ Việt.

Có một hôm, chú bé đặt giả thuyết, nếu trong truyện Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, nhân vật chính không phải là Cô Bé mà là một chú bé thì có khác gì không. Rồi chú tự trả lời rằng chú bé ấy sẽ không dại mà nghe lời phỉnh gạt của một con chó sói đâu! Bởi vì… chú là con trai! Bà cũng phì cười vì ý tưởng ngộ nghĩnh đó. Nhưng thật dễ dãi, chú vẫn thích nghe cái đoạn Cô Bé Quàng Khăn Đỏ đi đến nhà Bà Ngoại, lúc đó bà đã bị Chó Sói nuốt tươi vào bụng rồi, và Chó Sói đã leo lên giường, nằm đắp chăn giả làm Bà Ngoại bệnh. Chú thích chí, bắt bà đóng vai Chó Sói, còn chú sẽ là Cô Bé Quàng Khăn Đỏ.

Chú bé hỏi:

“Bà ơi, hôm nay sao tai bà to thế?
Bà giả giọng ồ ề đáp:
“Tai bà to để bà nghe cháu nói cho rõ.”
“Bà ơi, hôm nay sao mắt bà to thế?”
“Mắt bà to để bà nhìn cháu cho rõ.”
“Bà ơi, hôm nay sao miệng bà to thế?”
“Miệng bà to để bà… ăn thịt cháu. Quàm!!!”
Mọi khi, nghe đến đó là chú bé giả vờ co rúm người lại, sợ hãi, hét lên. Nhưng lần này, đột nhiên chú bé hỏi:
“Bà ơi, sao tóc bà dài và đen thế?”
Bà giật mình, tròn mắt, ngạc nhiên, rồi bà cười xòa:
“Bà ấy hả? Bà… không biết. Ờ… chắc Ông Trời cho bà được vậy thôi!”
“Vậy bà đã gội đầu bằng gì hở bà?”
“Thì bằng dầu gội đầu bình thường, con biết đấy!”
Chú bé gật đầu, còn muốn hỏi thêm. Bà ôm chú bé vào lòng, kể:

“Con biết không, thời xưa, có một khoảng đời, bà và nhiều người khác rất khổ. Những vật dụng hằng ngày rất khan hiếm. Ngay cả xà bông cũng không có mà mua. Mua được một cục xà bông thơm cũng là chuyện xa vời. Bà đã từng pha xà bông bột giặt để gội đầu, con nghe sợ không? Bà sợ lắm, vì làm như vậy tóc sẽ rụng hết, da đầu sẽ bong ra, nhưng ở bẩn thì bà chịu không nổi. Vậy mà Ông Trời thương, cho đến tuổi bảy mươi bà vẫn nuôi được mái tóc đen và dài này.”

“Để… thỉnh thoảng bà lại cắt tặng cho các em bé bị rụng tóc hở bà?”
“Ừ.”
“Hay quá bà ơi, giống như truyện cổ tích!”
Bà ngạc nhiên:
“Là cổ tích sao?”
“Con thấy truyện cổ tích kể về những chuyện khó xảy ra.”
Bà gật gù:
“Ờ ha! Bà cũng thấy vậy. Bà cám ơn Trời.”
“Bà hay nói cám ơn Trời.”
“Đúng vậy con à! Bà luôn cám ơn Trời vì đã cho bà những điều khó xảy ra.”

Hai bà cháu cùng im lặng. Bỗng dưng bà nhớ đến một người bạn thân đã viết một bài văn ngắn, nhắc đến truyện cổ tích kể về một người mẹ mất đi để lại một đứa con quá nhỏ, thằng bé phải sống với một bà mẹ ghẻ. Bị bà mẹ ghẻ đày ải và hà khắc, nó đi chăn bò và luôn phải ăn cơm hẩm. Bà mẹ ghẻ thấy nó ăn cơm hẩm mà vẫn mập mạnh, bà cho con ruột của mình đi chăn bò với nó một bữa để theo dõi. Thằng con bà về kể, tới giờ ăn trưa thằng bé kia tới dưới bụng con bò mẹ, kêu "Mẹ ơi!" thì có một mâm cơm ngon lành hiện ra. Con của bà mẹ ghẻ cũng có ăn nữa, giây sữa ra áo đem về cho bà coi. Nghe kể, bà mẹ ghẻ giết con bò, quăng xương ở gốc cây. Tới trưa, thằng bé ra gốc cây ngồi khóc, mâm cơm lại hiện ra. Cứ thế, cho đến khi đứa bé trưởng thành. Khi nó tự kiếm sống được thì nghe trên không có tiếng mẹ nó giã từ.

Người bạn viết tiếp: “Một truyện cổ tích trong rừng cổ tích của tuổi thơ, tôi đọc và quên bẵng đi mấy mươi năm, cho đến khi má tôi mất. Má tôi mất, tôi không khóc, nhưng lòng không sao nguôi ngoai được.

Một khuya kiểng thức chúng, tự nhiên tôi nghe như tiếng má tôi gọi tôi. Tôi bật dậy, bàng hoàng, chợt nhận ra truyện cổ tích có thật. Lòng tôi nhẹ bổng, thương nhớ như nguôi ngoai. Má vẫn ở cạnh tôi, chăm chút tôi như bao giờ…” (1)
 
****
Tuổi thơ của bà tràn đầy những điều tưởng tượng, do dó mà phong phú. Nhà anh em đông, đồ chơi lại không nhiều, bà tự chế ra các món đồ chơi. Bà cũng biết xếp lồng đèn, vẽ thiệp Nô-en, thiệp Tết. Nào có biết đến sinh nhật hay Nô-en!  Rồi bà cũng làm Ông già Nô-en, rón rén đi cho quà những người trong gia đình. Bà cũng làm cô giáo dạy học một đám học trò tưởng tượng. Bà nghĩ, nếu không có tưởng tượng, cuộc sống của con người ta sẽ khô đét, như cái cây không được tưới.

Nhưng tưởng tượng nhiều quá thì có nên chăng? Không nên chút nào! Như bà thuở bé hay mơ mộng nhìn lên mặt trăng và nghĩ về chú Cuội ngồi gốc cây đa, đó cũng là qua những câu chuyện kể. Nhưng khi đã biết về sự thật trên mặt trăng, bà không kể cho các bé nghe về chú Cuội cây đa nữa. Bà kể về những bước chân kỳ diệu của con người đặt lên mặt đất cung trăng. Nói bằng cách nói của chú bé, đó cũng là những điều khó xảy ra. Nhưng điều khó xảy ra đó lại có trong đời thật. Rất tuyệt vời!

Đến lượt chú bé đặt ra những câu hỏi cho bà suy nghĩ.

“Bà ơi, vậy ngoài cái thế giới của bà cháu mình, và thế giới bao la của vũ trụ, còn có thế giới nào nữa không?”
“À… Có! Là cái thế giới mà bà đã làm việc cùng.”
“Là gì vậy bà?”
“Một thế giới của những sinh vật bé nhỏ li ti, mắt thường của bà và cháu không thể nhìn thấy được.”
“Làm sao để thấy?”
“Không khó. Phải dùng kính hiển vi phóng to lên để thấy. Đó là thế giới của vi sinh vật.”
“Nó có khác biệt với mình không hở bà?”

“Không mấy khác biệt. Vi sinh vật cũng sống, cũng cần thức ăn, cần được nuôi dưỡng tốt. Chúng cũng phát triển, cũng già, cũng chết. Có những loại gây hại cho con người, thú vật và cây cỏ. Nhưng đã có những loại thuốc chống lại chúng. Và cũng có những loại vi sinh vật làm lợi cho con người. Thế giới của chúng cũng có tốt có xấu như thế giới của mình vậy,”

“Bà ơi, vậy bà có nhân cách hóa những con vi trùng của bà không?”

“Có chứ! Mỗi khi làm phản ứng về chúng, bà thường thuận theo sở thích của chúng, vì bà hiểu chúng như hiểu tính con người. Con biết không, chúng cũng thích ăn ngọt như mình vậy, nhờ đó mà bà định danh chúng dễ dàng.”

“Hay quá! Con thích học về chúng, như bà vậy!”

Bà ôm chú bé vào lòng, âu yếm:

“Con học về chúng, hoặc con học về vũ trụ, đều hay cả. Con mong muốn, con sẽ được.”

Chú bé lại tỏ vẻ suy nghĩ…

 “Bà ơi, con muốn tất cả các bạn nhỏ như con đều được nghe kể những chuyện như bà kể.”

Bà im lặng. Có vẻ như chú bé đang nghĩ đến những điều vượt xa cái thực tại của chú. Bà biết nói sao đây, về những em bé sống ở vùng chiến tranh, về những em bé chưa lớn đã thấy súng đạn, về những em bé sinh ra và lớn lên trong cảnh đói nghèo? Quả thật, thế giới vẫn cần có những Ông Bụt của cô Tấm, những Bà Tiên của Lọ Lem. Vâng, những Ông Bụt Bà Tiên bằng người thật.
 
****
Bà từng nghĩ chỉ kể những truyện cổ tích cho chú bé vui. Nhưng chú bé đã tỏ ra biết suy nghĩ và lý luận nhiều. Cho nên bà đã thêm vào “kho” truyện kể cho chú bé, một truyện mà bà rất thích: Hoàng Tử Bé (2). Bà đã dùng lối kể đơn giản thay vì đọc những lời dịch cao siêu thâm thúy của Học giả Bùi Giáng. Có khi bà dùng những chữ trong bản tiếng Anh cho dễ hiểu. Chú bé đã tự đúc kết được những ý chính mà tác giả chuyển tải đến cho người đọc, theo cách nghĩ non nớt của chú, và cũng rất đúng với ý muốn của bà.

“Bà ơi! Ai cũng cần có bạn phải không bà?”

“Đúng vậy. Và cần lắm, những người bạn thiết, con ạ!”

“Muốn có bạn thiết, cần phải làm sao?”

“Cần phải tuần dưỡng (3) – Bà dùng chữ “tuần dưỡng” của cụ Bùi Giáng–  Quen biết không phải là tuần dưỡng. Tuần dưỡng là tạo nên sợi dây liên lạc, muốn vậy phải dành thì giờ cho nhau, hiểu biết về nhau.”

“Như bà cháu mình phải không bà?”

Bà bật cười:

“Đúng rồi! Nhưng xa hơn nữa, như trong truyện, Hoàng Tử Bé và Con Chồn đã tuần dưỡng nhau, và trở thành bạn thiết, vì họ đã dành thì giờ rất nhiều cho nhau, nói chuyện rất nhiều với nhau, hiểu nhau, và cần nhau.”

“Con hiểu rồi! Bà ơi, ai cũng cần có trách nhiệm với một cái gì đó phải không bà?”
“Phải. Như Hoàng Tử Bé có trách nhiệm vĩnh viễn đối với cái gì chú đã tuần dưỡng một phen. Hoàng Tử Bé và Đóa Hồng bé nhỏ của chú ấy đã tuần dưỡng nhau. Cho nên Hoàng Tử Bé quyết có trách nhiệm vĩnh viễn với Đóa Hồng của chú ấy. Bằng mọi cách, chú phải quay về với Đóa Hồng của mình.”
 
Thật đơn giản! Chú bé hiểu hết. Bà đã không nói chuyện với chú bé như nói với một cô-bé-già-trước-tuổi. Bởi ý niệm của truyện rất giản dị, nên dễ hiểu. Khi chú bé lớn lên, ở từng thời điểm của cuộc đời, chú bé sẽ hiểu theo những cách khác nhau, và áp dụng cũng khác nhau. Chú bé sẽ hiểu về trách nhiệm, hay nói cách khác là lòng trung thành với một tình bạn, với một tình yêu, với một đất nước, hay với một lý tưởng… là như thế nào.
 
Tháng 1/2025
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(1) Cổ Tích, tác giả: Thuần Chánh
(2) Nguyên tác: Le Petit Prince, tác giả:  Antoine de Saint-Exupéry
(3) tame (E), apprivoiser (F)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Văn hóa phương Tây, rắn vừa là biểu tượng trong lĩnh vực y khoa vừa là nguồn cảm hứng trong hội họa, kiến trúc và văn học. Văn hóa Hy Lạp bắt nguồn từ vị thần cổ đại Hermes, sứ giả của các vị thần. Thần Esculape được coi là ông tổ của ngành y dược. Biểu tượng của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO (World Health Organization) con rắn quấn quanh cây gậy Esculape cầm. Cục Quân Y VNCH có thêm đôi cánh trên thanh kiếm.
Hồi năm sáu tuổi tôi vẫn hay theo chúng bạn ra chơi trước đình làng Thanh Thủy. Nơi đó có mấy cây sanh cổ thụ rất lớn luôn tỏa bóng râm mát mẻ cả đoạn đường bến chạy qua làng. Bên kia con đường bến là hồ Vọng Nguyệt, một cái hồ trông như vuông vức, rộng chừng nửa mẫu tây, dân địa phương vẫn quen gọi là hồ làng...
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
Viet Bao Podcasts
Tạp Chí Truyền Thanh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.