Hôm nay,  

Đi chùa, đi cúng tháng Giêng

03/03/202409:47:00(Xem: 1691)
Tạp bút

di-chua-03

1.

Ở đất Sài Gòn, vào những đêm giao thừa xa xưa hầu như gia đình nào cũng bỏ lệ nhắc bọn trẻ đi ngủ sớm. Ở nhà tôi, trong khi mấy đứa em được tha hồ xem chương trình ti-vi đặc biệt chủ đề mừng năm mới, tôi được phụ mẹ tôi chuẩn bị mâm cúng đón giao thừa đúng 12 giờ khuya. Rồi khi mẹ tôi cùng mấy bà hàng xóm đi Lăng Ông Bà Chiểu, tôi cũng được tháp tùng. Ngoài đường đông vui hết sức! Đến gần Lăng Ông là phải xuống xe xích lô, chen vào đám người đi bộ đang tràn ngập con đường Lê Văn Duyệt (cũ). Chưa lọt vào cổng lăng đã thấy khói hương nghi ngút như sương mù. Cúng kiếng, xin xâm và hái lộc – không dễ gì làm cho đầy đủ, nhanh gọn các nghi thức này nên ai nấy đều vội vàng vì còn phải quay về nhà trước 12 giờ đề cúng giao thừa nữa. Trên đường về, mẹ tôi còn ghé thắp nhang ở tịnh xá sư nữ Ngọc Hương, nhỏ hẹp, nghèo nàn ở gần nhà, mà mùa Tết năm nào bà cũng tặng một, hai chục ký gạo. Rồi sáng mùng một, trên đường đi chúc Tết, mừng tuổi ông bà nội tôi, mẹ tôi không quên ghé thắp nhang ở chùa Vĩnh Nghiêm nguy nga, tráng lệ…
    “Trên đường đi lễ xuân đầu năm…” vào dịp Tết Nguyên đán hằng năm, hẳn không riêng gì người viết bài ký này mà rất nhiều người trong chúng ta đều xúc động, bâng khuâng khi nghe lời ca hiền lành, đầy tình người mở đầu ca khúc Câu Chuyện Đầu Năm. Tôi còn nhớ, vào một năm đầu thập niên 60, đài Tiếng Nói VNCH ở Sài Gòn, trong một chương trình ca nhạc rất hay tên là “Sóng Nhạc” chỉ có vào các đêm chủ nhật, đã lần đầu tiên phát ca khúc Câu Chuyện Đầu Năm của cố nhạc sĩ Hoài An qua giọng hát ngọt ngào, tinh khôi, rất Nam bộ của Phương Dung, nữ ca sĩ được mệnh danh “Con nhạn trắng Gò Công”.
    Chính với hình ảnh tuyệt đẹp ấy, đã hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao thăng trầm lịch sử, đa số các gia đình người Việt mình vẫn giữ nguyên tập tục đi chùa, đi cúng, tức cùng nhau đến các chùa chiền, miếu mạo để dâng hương, cầu tài lộc, xin xâm, cúng sao, cúng hạn… vào ngày đầu năm mới và cả suốt trong tháng giêng âm lịch.
 
2.
Bao đời nay, ý nghĩa của Tết Nguyên đán vốn rất đậm chất tâm linh, tín ngưỡng đối với người mình, dù đang sống trong nước hay hải ngoại. Và ngày xuân đi lễ chùa là một hình ảnh rất tươi sáng, cao trọng – rất “quê hương” đối với người Việt chúng ta.
    Do đó, cho đến ngày nay, tại những con đường chạy ngang những ngôi chùa lớn ở Sài Gòn, như Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi, Việt Nam Quốc tự, Kỳ Viên tự…, cả ở trước một ngôi chùa cổ, nhỏ thôi, là chùa Ngọc Hoàng ở khu Đakao, kẹt xe liên miên vào đêm 30 và ba ngày Tết là chuyện rất thường tình, năm nào cũng vậy. Ngôi chùa mới nhắc, từng được tổng thống Mỹ Barack Obama ghé thăm khi đến VN, đã xấp xỉ 100 năm tuổi và từng được phong là “Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia – Điện Ngọc Hoàng”. Xa xưa nguyên nơi này là một đền (điện) thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế của người Hoa, sau mới có thêm bệ thờ Phật xây ở phía trước bệ Ngọc Đế. Sau tháng 4-75, chùa có tên mới là “chùa Phước Hải” do giáo hội Phật giáo trong nước đặt, nhưng đối với hầu hết bá tánh Việt – Hoa, phải nói “chùa Ngọc Hoàng” thì người ta mới biết. Có lần tôi hỏi mượn tập tài liệu giới thiệu các gói tours của Saigon Tourist trên tay một du khách người Anh đang viếng chùa Ngọc Hoàng, thấy chữ “Jad pagoda” được in rành rành. Bước sâu vào chánh điện, mấy ông tây bà đầm rất thích chụp ảnh tượng Tam vị Phật tổ, tượng Ngọc Hoàng cùng những tượng chư tiên (Nam Tào, Bắc Đẩu, Thiên Lôi, Văn Xương, Văn Khúc, Thái Thượng Lão Quân.v.v…, gần như đủ mặt các “chức sắc” trên Thiên đình trong truyện/phim Tây Du Ký). Riêng bọn trẻ nhỏ đến chùa thì đứa nào cũng khoái cái hồ nuôi rùa bên phía phải chánh điện. Lũ trẻ cứ tìm cách ném bắp rang, bánh mì – kể cả hoa, lá hái trộm trong sân chùa – cho lũ rùa lúc nào cũng đói ăn trong hồ.
    Những năm gần đây, đến mùng 4 Tết – hạ nêu, cúng tất, tiễn ông bà về Trời – tôi lại hay tháp tùng một nhóm bạn thân, là những người luôn luôn giữ đúng lời nguyện đi lễ cho đủ 10 kiểng (cảnh) chùa, đền, miếu… tứ phương trong tháng giêng hằng năm.
    Mở đầu chuyến hành hương bằng xe gắn máy này là những ngôi chùa ở Gò Vấp và Bình Thạnh. Vùng tỉnh Gia Định cũ tiếp giáp với đô thành Sài Gòn này vốn có rất nhiều chùa, như các chùa: Dược Sư, Pháp Hoa, Già Lam, Kỳ Quang, Linh Quang, Chưỡng Đức, Từ Quang, tịnh thất Trung Tâm, Ngọc Phương tịnh xá.v.v… Riêng ở khu vực bên phải đường rầy xe lửa xuyên Việt, có chùa Từ Quang rất xưa, nay đã được đại tu, thành gần như một ngôi chùa mới rất khang trang. Kết hợp hình nét của cả hai tông Phật giáo, chùa trang trí theo lối chùa Thái Lan (Nam tông) nhưng lại có chạm phù điêu hình rồng bay kiểu chùa Trung Hoa (Bắc tông).
    Kế đó, chúng tôi ra ngoại thành, trước hết là ghé đình Phong Phú ở Thủ Đức. Tại sao cứ năm nào cũng là đình Phong Phú? Một anh bạn đã cười: “Bộ đầu năm ông không muốn giàu sao? Chữ ‘phú’ trong tên đình ‘Phong Phú’ đó!”. Thì ra là vậy. Hèn chi mấy ngày Tết, dân chúng nội ngoại thành cứ lũ lượt kéo đến cúng Ông (hẳn Ông là thần, thành hoàng của xã Tăng Nhơn Phú?) trong ngôi đình không thờ Phật nhưng hứa hẹn… phú quí này. Và thiên hạ cũng không thường ghé thêm một ngôi chùa cổ, kiến trúc rất đẹp, cách đình Phong Phú khoảng 3.5 – 4 cây số, tên là Phước Thạnh tự.
    Rồi chúng tôi tiếp tục ra miền Trung, tương tự chương trình tours hành hương ngắn ngày của những công ty kinh doanh du lịch hay cơ sở cho thuê xe du lịch. Sau những ngôi chùa trên núi Gia Lào (vùng Long Khánh cũ), ra dinh Thầy Thiếm ở vùng biển Bình Thuận, bọn tôi lên núi Tà Cú ở vùng Bình Thuận Nam để vào Linh Sơn cổ tự. Nguyện ước “Mười kiểng chùa” đã viên mãn! Sau một đêm ngủ mê mệt tại mái hiên chùa, các bạn tôi hớn hở ra chánh điện lạy Phật, cúng tiền vào thùng công đức. Và đây mới là điều được mong chờ nhiều nhất, kết thúc chuyến hành hương mấy đêm ngày rong rủi, nhọc nhằn: lá bùa cầu an đã xin năm ngoái được trao lại cho một nhà sư trẻ, viết chữ Hán rất đẹp, để sư đốt bỏ và viết cho anh em lá bùa mới cho năm mới.
 
3.
Đã thấy, khi đi cúng kiếng, xin xâm, hái lộc để cầu an, cầu tài, cầu duyên (kể cả cầu… thoát nợ, giãn nợ) vào những ngày đầu năm, người mình đã rất phóng khoáng trong việc chọn lựa đối tượng thiêng liêng để gởi gắm ước nguyện đầu Xuân. Như ở Sài Gòn, bá tánh, gồm cả người Việt lẫn người Hoa, không phân biệt đâu là lễ Phật ở các chùa, đâu là cúng Ngọc Đế – thần cai quản vũ trụ, như ở chùa Ngọc Hoàng, quận 1, đâu là cúng nữ thần như Bà Thiên Hậu ở chùa Tàu, quận 5 (thường là người ta đi cúng luôn cả Ông Phước An trong chùa Ông, ở cạnh chùa Bà trên đường Nguyễn Trãi), hay lễ thần địa phương như Ông trong đình Phong Phú, Thủ Đức. Nhiều người còn đi cúng danh nhân lịch sử, như tại đền đức Thánh Trần (Hưng Đạo vương) ở Tân Định, lễ luôn cả ông bá hộ hiển linh ở dinh Thầy Thiếm vùng Bình Thuận, hay lặn lội đi cúng Bà Chúa Xứ (gốc là nữ thần trong đạo Bà La Môn) ở tận Châu Đốc. Rằm tháng giêng, dân buôn bán các chợ đã vội vã phóng xe đi Bình Dương để cúng chùa Bà. Còn đối với người dân ở các vùng khác, như Nha Trang chẳng hạn, thì nếu đám thanh niên thích rủ nhau lên viếng đức Bà Thiên Y trên tháp Bà thì người lớn tuổi lại cung kính đi viếng mộ bác sĩ Yersin ở Suối Dầu. Ở nhiều vùng quê miền Tây, nông dân đi thắp nhang ở những cái miếu nhỏ thờ ông Tà, vị thần chỉ cai quản vỏn vẹn một vạt ruộng, một cánh đồng…
    Do đâu mà người mình lại có kiểu tin tưởng đa thần, không phân biệt nguồn gốc các thần linh tứ phương như thế?
    Với truyền thống tín ngưỡng “Tam giáo đồng lưu” đã có từ thời quân chủ xa xưa, cả ba đạo Phật – Khổng – Lão đã cùng tồn tại trong tâm hồn dân Việt suốt bao thế kỷ. Người qui y thì nhận mình là Phật tử, tức theo đạo Phật với đạo lý Từ Bi Hỉ Xả. Người không qui y thì nhận mình theo đạo “Thờ cúng ông bà” – một phiên bản đặc biệt Việt Nam của đạo Khổng Nho với đạo lý Ngũ Thường, Tam Cương. Người tin tưởng bói Dịch, bùa Lỗ Ban, kính ngưỡng giới thầy pháp, thầy cúng, là vô hình trung tự xếp mình vào hàng đệ tử của đạo Lão với các thuyết Thái Cực, Lưỡng Nghi… Rốt cuộc, trong nhà của hầu hết người Việt, bên cạnh chỗ thờ phượng tổ tiên, ông bà thường có rất nhiều bàn thờ, trang thờ khác nữa. Trong nhà Phật tử và người theo đạo thờ cúng ông bà, ngoài bàn thờ Thích Ca và Quan Âm (thuộc đạo Phật), còn có các trang thờ Thần Tài, Thổ Công ở phòng khách và thờ Táo Quân ở nhà bếp (ba vị này thuộc đạo Khổng) cùng trang thờ ngoài sân để cúng Trời (Thiên/Thái Cực, thuộc đạo Lão). Trong nhà người theo đạo Hòa Hảo hay đạo Cao Đài thì trước tiên là thờ đức Phật Thầy Tây An (sáng lập đạo Hòa Hảo) hay thờ Con Mắt, biểu tượng đạo Cao Đài.
    Thú vị nhất là về Quan Nhị Ca mà trong các phim hình sự, xã hội đen của Hồng Công, các anh chị police hoàng gia thường thắp nhang cho ngài trước khi đi phá án. Có thể đây là nguyên Tổ của nghề bộ đầu/công an/cảnh sát bên Trung Quốc từ thời xưa truyền lại nhưng không biết từ lúc nào, Quan Công (hay Quan Thánh, biểu tượng cho đức trung liệt Khổng Nho) hùng dũng với mặt đỏ, râu dài của người Hoa đã được người Việt cùng thờ phượng vì cảm phục đức độ anh hùng.
    Riêng về Thần Tài, sách dạy phải thờ ổng cho đúng cách: trang thờ đặt dưới đất và quay mặt ra đường, không có đồ vật gì che áng phía trước và phải thường xuyên sáng đèn, và thường còn kèm theo các pho tượng nhỏ nữa cho đủ bộ ba Phước Lộc Thọ.
    Hơn thế, lại có nhiều người theo Thiên Chúa giáo (đạo này không cho phép thờ ngẫu tượng nào khác ngoài tượng Chúa ba ngôi và các thiên sứ) vẫn thờ ông Thần Tài. Có lẽ các nhà thờ địa phương đã châm chước cho kiểu thờ “phụ trội” của con chiên. Ngoài ra, một số nhà thờ ở vùng Á châu (những quốc gia dùng cả hai loại lịch tây và ta) như tại VN, còn tổ chức các lễ đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán. Mùng một Tết, trong lúc các chùa hành lễ cầu quốc thái dân an thì bên nhà thờ làm lễ “cầu bình an”. Mùng hai Tết, con chiên đi lễ “cầu ông bà tổ tiên”. Mùng ba Tết, trong lễ “thánh hóa công ăn việc làm”, con chiên mang một dụng cụ biểu trưng cho nghề nghiệp của mình đến đặt trên một cái bàn sát bên bàn thờ Chúa. Ví dụ thợ hớt tóc thì có cái tông-đơ, thợ may mang đến cái kéo, còn nhà văn/nhà báo (thợ viết?) như bọn tôi có thể bày ra cây bút ghép vào một cuốn vở… Lễ chấm dứt, mọi người hoan hỉ mang về nhà món đồ nghề đã được ban phép lành với niềm tin tưởng và hy vọng nhiệt thành rằng sẽ được hành nghề, kiếm sống thuận lợi trong năm mới.
                                                                
4.
Thờ phượng, đảnh lễ trước bàn thờ Phật, Chúa, các thần linh muôn phương, tại gia đình hay tại chùa, nhà thờ, đền, miếu… vốn là sinh hoạt thường xuyên, quanh năm suốt tháng của bất cứ ai có tín ngưỡng, có lòng tin vào thần thánh thiêng liêng, nhất là vào các kỳ Phật đản, Giáng Sinh, Thánh đản, mùa vía Kỳ yên v.v… Nhưng riêng vào mùa Tết âm lịch truyền thống – ngay từ trước giờ giao thừa năm cũ/năm mới hay trong chuyến hành hương “mười kiểng chùa” tháng giêng – thì việc hành lễ, cúng Phật, cúng thần… của mọi người Việt lại mang những ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, hân hoan.
 

Phạm Nga

 

Ý kiến bạn đọc
04/03/202401:16:37
Khách
Cảm ơn Tác giả đã giúp bà con ta trở về "Những ngày xưa thân ái" .
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người ta nói: “Hết quan là hoàn dân” và chỉ mong có vậy, đừng hết quan hoàn…tàn phế” thì buồn quá! Hôm nay lão Dụng đã tự ngồi dậy được. Lão không nhớ là mình đã nằm như khúc gỗ mục, bất động bao lâu rồi! “Mới đó mà đã lại sang một năm mới. Thời gian bây giờ có nghĩa gì đâu chứ!”: Lão lẩm nhẩm một mình!...
Trong một căn phòng motel nhỏ sạch sẽ gọn gàng chăn ga gối trắng, trên giường phủ một tấm trải lớn có thể dùng làm chăn đắp màu lông chuột, một người phụ nữ nằm khóc, và người đàn ông đang ra sức dỗ dành. Cô gái mếu máo “Anh à, anh X đã bỏ đi rồi!”...
Những ngày cuối tháng tư quân trường Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung vẫn đang cắm trại, chồng tôi chưa về, nhưng trước khi đi anh đã bảo tôi ở nhà có gì thì bám theo cha mẹ và các em để đùm bọc lẫn nhau. Gia đình cha mẹ tôi ở gần nên hai nhà như một...
Tôi bồn chồn liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi lại nhìn chừng về phía hội trường đầy ấp hơi người và ồn ào tiếng cười nói. Đã hơn tám giờ mà chương trình vẫn chưa bắt đầu. Chưa bao giờ tôi thấy khó chịu về chuyện giờ giấc như lúc nầy. Thấp thoáng trong đám đông, tôi thấy Khánh đang chạy đôn đáo chừng như kiểm điểm sự có mặt của một số khách “nồng cốt”, để bắt đầu chương trình...
Tiếng hát Cẩm Vân trong trẻo, vút cao, nghèn nghẹn đầy xúc cảm. Tôi buông thả Mi7 và chuyển vội La thứ như chưa muốn ngừng những âm vang cuối. Nốt dứt đoạn ngân dài, tất cả lặng yên, bên ngoài có tiếng gió đêm Sài Gòn vội về, bất chợt...
Tố Như tiên sinh đã để lại cho hậu thế câu thơ tháng ba đẹp như tranh trong truyện Kiều, “cỏ non xanh tận chân trời/ cành lê trắng điểm một vài bông hoa…” Đọc xong câu thơ thì nửa số người đọc đã nhắm mắt lại để hình dung ra bức tranh mùa xuân vẽ bằng thơ; với hai màu xanh, trắng vào tay hoạ sĩ, chúng ta có bức tranh chiêm ngưỡng bằng mắt, nhưng với nhà thơ chúng ta có bức tranh trong trí tưởng tuyệt vời… Tôi nói với ông bạn mê thơ đang ngồi chung bàn cà phê mà mọi người đang nói chuyện thời sự nên không phù hợp với một sáng tháng ba trời mát lạnh vì mưa đêm qua rả rích tới sáng, anh em rủ nhau ra ngoài trời ngồi uống cà phê cho mấy ông bạn còn hút thuốc được thỏa mãn thú tính. Thế là những ông đã giã từ làn khói mỏng bị những ông còn hút thuốc giận cho, rồi cãi nhau.
Đầu tháng Tư, hoa tulip đã vội gõ cửa mọi nhà sau giấc đông miên ngắn ngủi. Mùa Xuân cũng theo hoa tulip trở về, mở ra khúc giao mùa. Trong gió Xuân đầu mùa còn lạnh, ngoài xa trên cánh đồng rừng quê muôn vạn búp non đang nẩy lộc đâm chồi. Cỏ non, cây rừng già vẫn mạnh mẽ vươn lên tràn đầy sức sống. Đàn cá hồi thức giấc bắt đầu vượt thác trở lại quê hương nguồn cội...
Một thời gian ngắn sau Hiệp Định Genève tháng 7, 1954, gia đình chúng tôi rời Phủ Cam dọn vào ở trong khuôn viên trường Đồng Khánh. Măng chúng tôi dạy môn Nữ Công Gia Chánh, và có lẽ vì là một quả phụ với 6 con, nên được Bà Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chi, ưu ái giúp đỡ cho gia đình được sống trong 2 căn phòng trên lầu Ba (bên phải, nếu từ cổng trước nhìn vào). Cùng ở trên lầu Ba sát cạnh gia đình chúng tôi là gia đình của bà quả phụ Trần Thi, mà chúng tôi thường kêu là Dì Hoàn vì Dì là bạn của Măng tôi từ khi 2 người học chung với nhau tại trường Đồng Khánh trong thập niên 30. Gia đình Dì cũng đông không kém gia đình tôi – 7 người. Dì ít cười và có vẻ nghiêm khắc. Các nữ sinh nghỉ trưa tại trường rất sợ gặp “Bà Thi”, dễ bị Bà la rầy hay cho “kỷ luật”, nhất khi bị bắt gặp đi lang thang trong hành lang thay vì phải ở trong phòng học.
Hạo chỉ có cậu Tân là người cậu duy nhất. Mẹ Hạo là chị cả trong gia đình có bốn người con. Mẹ, dì Hiên, cậu Tân và dì út Hậu. Cậu Tân vốn là một nông dân chính hiệu. Hình như cậu học mới qua bậc tiểu học là cậu bỏ cây bút để cầm cái cày, cái cuốc. Đến năm cậu trên bốn mươi, cậu đã có bảy người con, bốn trai, ba gái. Có lẽ cậu thấy cuộc sống làm một người nông dân quá cực hay sao mà cậu nhảy ra tham gia chánh quyền. Cậu được bầu làm xã trưởng...
Những chuyến xe ngập ngừng, chậm chạp lăn trên con đường gập ghềnh để chuyên chở đoàn người đi thăm cha, anh, em, con, chồng ở khắp nơi trong những trại tù, nơi mà lớp người mới gọi là "Trại Học Tập Cải Tạo" nghe ngược ngạo, chua chát nhiều đắng cay. Từ Quốc Lộ 1, phải đi khoảng chừng 2 cây số, trên một con đường mòn, xuyên qua rừng cây gỗ quý cẩm lai là đến trại tù cải tạo Hàm Tân...
Cuộc hôn nhân ngắn ngủi vài năm của Bình với người vợ cũ tan vỡ. Mộng Điệp là người phụ nữ vật chất, đứng núi này trông núi nọ, tính nết đanh đá chua ngoa luôn có những lời nặng nhẹ chê bai chồng không biết kiếm tiền giỏi như người ta...
Chuỗi dài thời gian của quá khứ ta còn giữ được. Giữ được mãi mãi cho đến khi trí đã mòn sức đã kiệt. Giây phút hiện tại coi như chẳng có gì. Nó vuột khỏi tay ta từng sát na rồi cũng tan biến vào quá khứ đề xếp hàng cùng với chuỗi thời gian đã qua. Tương lai là điều chưa có, chưa đến nên ta cũng chẳng làm chủ được gì của những điều ở cõi xa thẳm diệu vợi...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.