Hôm nay,  

Tháng Tư, kể chuyện... bà già

24/04/202317:22:00(Xem: 2697)
Truyện Tháng Tư

IMG_5362


BÀ GIÀ GÂN

 

Ở xóm tôi, từ đầu xóm đến cuối xóm, hầu như nhà nào cũng có người đi vượt biên. Nhưng không phải ai cũng may mắn đến bờ tự do, bởi nếu đếm số người “đi không về và cũng không bao giờ đến” ở xóm cũng cỡ hai chục mạng người, trong đó có cô bạn rất thân yêu của tôi và một gia đình mất một lúc sáu người, đó là gia đình Bà Già Gân.
     Nhà Bà ở ngoài đường lộ, nhà tôi trong hẻm, nhưng hai phía sau nhà đối diện nhau, nên từ sau nhà tôi bước qua sau nhà Bà chỉ vài bước chân. Bà là hàng xóm thân thiết với Má tôi từ thuở xưa mới di cư vào Nam, sau khi Má tôi mất, Bà luôn có mặt trong các dịp giỗ quảy cưới hỏi của gia đình tôi, thay mặt cho Má tôi, nên hai gia đình thân nhau lắm.
     Hồi đầu thập niên 80s, vợ chồng người con gái đầu của Bà vừa đánh điện tín từ đảo về, Bà qua nhà tôi thầm thì cả buổi chiều, sung sướng dự tính các chuyến vượt biển khác cho những đứa con còn lại trong gia đình. Bà tuyên bố:
     – Tao cho chúng nó đi hết, chỉ còn lại hai ông bà già, lúc đó tụi Cộng Sản có đem tao ra chợ xử bắn tao cũng vui lòng.
     Lúc ấy, tôi ngồi hóng chuyện, nhìn mặt bà cương quyết vững vàng chỉ biết há hốc miệng mà ngưỡng mộ! Nói là làm, chuyến kế tiếp thời gian sau đó Bà “chơi lớn” luôn 6 người, trong đó có ba người con ruột của Bà, thêm người em ruột của Bà cùng cô con gái và cháu ngoại của người em. Đau đớn thay, chuyến đi không có tin tức gì, Bà mòn mỏi héo hon, vật vờ suốt mấy năm trời. Chẳng ai dám chia sẻ ủi an Bà vì ai cũng biết Bà mạnh mẽ và mọi lời nói cũng bằng thừa.
Vậy mà người mẹ đau khổ ấy, được hàng xóm nể phục tặng biệt danh là “Bà Già Gân”, đã vượt qua nỗi đau mất con, mất em, mất cháu, để tiếp tục đưa liên tiếp hai người con trai đi thành công trong hai chuyến sau, đúng là trời không phụ lòng người.
     Nhớ khi có người cản, Bà Già Gân lại tuyên bố xanh rờn: “Dù thế nào đi nữa cũng không thể sống dưới chế độ Cộng Sản man rợ này!” Tôi bái phục Bà Già Gân và Sắc Sảo quá chừng.
     Ai ngờ chính tôi lại có dịp đi vượt biên với con gái của Bà, mà Bà gọi là chuyến cuối cùng của gia đình Bà. Đêm khuya hôm trước tôi đã qua nhà Bà ngủ để mờ sáng hôm sau dậy sớm đón xích lô ra Xa Cảng. Bà lục đục dậy từ khi nào, nấu sẵn mấy gói xôi cho chúng tôi mang đi đường ăn ấm bụng. Trước khi ra khỏi nhà, chúng tôi bốn người (có cả Bác trai, chồng của Bà) cùng đọc kinh trước bàn thờ Chúa, nhưng tôi chẳng tập trung vào lời kinh vì tâm trạng âu lo rối bời, Bà bèn liếc xéo tôi một cái:
     – Sao nhìn mặt mày căng thẳng vậy hở con? Nhà tao đã có 6 người thế mạng ngoài biển Đông rồi, hai đứa bay cứ an tâm mà lên đường.
     Trời! Bà đọc thấu cả tim đen của tôi mới ghê, nhưng chuyến đi ấy xui xẻo, phải giải tán ngay bến chờ “taxi” tàu nhỏ ra sông ở Sóc Trăng, chúng tôi trở về nhà. Vài năm sau, đúng như lời Bà Già Gân chúc phúc từ chuyến trước, con gái Bà và tôi, một lần nữa, cũng ra khơi vượt biển, kẻ trước người sau lần lượt  vào trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand.
     Cuối cùng thì ước mơ của Bà Già Gân cũng thành, dù có đánh đổi sáu mạng sống của người thân, nỗi đau ấy Bà dâng cho Thiên Chúa. Bà hạnh phúc theo từng chuyến ra khơi thành công của những người con khác, thoát khỏi chế độ Cộng Sản.
     Bà Già Gân vừa qua đời cách đây vài năm tại Việt Nam, thọ hơn 90 tuổi. Các con cháu bà đang định cư ở Nam California, thành công trên con đường nghề nghiệp và học vấn, ở trên nước Thiên Đường hẳn Bà rất vui lòng, mãn nguyện.
 
BÀ GIÀ TRẦU
 
Anh Hai tôi, sau một thời gian dạy ở trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ thì được chuyển về dạy ở huyện Long Tuyền, Cần Thơ.
     Năm đó, chiến tranh biên giới Tây Nam căng thẳng nên nhà trường ra sức thuyết phục các thầy giáo trẻ, là đoàn viên viết đơn "tình nguyện" đi nghĩa vụ quân sự để họ lấy điểm với Sở Giáo Dục, và hứa hẹn sau này xuất ngũ sẽ được trở lại tiếp tục dạy học và thăng chức (ai tin lời hứa của cộng sản thì bán lúa giống!)
     Nói mãi nói hoài gần như ép uổng, cuối cùng cũng có vài thầy "tình nguyện" ra chiến trường. Buổi tối tiễn đưa có ăn uống và văn nghệ vui vẻ, một thầy trẻ đại diện nhóm "tình nguyện" lên sân khấu ôm đàn hát bài "Mẹ Ơi, Hãy Yên Lòng" có đoạn rất “hào hùng, phấn khởi” khí thế ra quân:
     "Rừng thay lá bao mùa rồi / Đoàn quân chiến đấu xa làng quê / Mẹ ơi hãy yên lòng / Dù bao gian nan ngày tháng...  Ah...  Ai giục lòng ta!/ Mẹ ơi có nghe!?"
     Mới hát được tới đó, có một bà già trầu từ dưới chạy lên, tay cầm cây chổi chà (thì ra là mẹ của thầy ấy), đánh tới tấp vào người thầy và rủa xả:
     – Yên lòng cái mả bố nhà mày! Mẹ ơi có nghe cái mả cha nhà mày!!!
     Người con quăng cây đàn chạy khỏi sân khấu, bà vừa rượt theo vừa chửi đổng:
     –  Sư cha quân ăn cướp! Tổ cha lũ ăn cháo đá bát, vắt chanh bỏ vỏ, tao đã ngu rồi sẽ không bao giờ để con tao ngu tiếp nghen bay!
     Sáng hôm sau, người con vẫn lên đường ra quân trường, bà già trầu bị đưa vào viện "tâm thần" một tuần lễ. Về nhà, bà ngồi nhai trầu, mỉm cười nói với chòm xóm:
     – Nhờ có... bệnh mà ở trỏng tui thoải mái chửi tụi nó!
     – Vậy giờ bà hết bệnh rồi phải hôn nà?
     Bà nhổ bãi trầu, quẹt mỏ bằng cái khăn rằn, cười lớn:
     – Thì coi như tạm hết bệnh, nhưng ai biết, lâu lâu bệnh sẽ ...tái phát, tao lại... lên cơn chửi nữa, chửi cho đã nư cái miệng tao, đứa nào dám bỏ tù bà già trầu “tâm thần”, tao thách!
     Vậy mà hơn một năm sau, bà già trầu bỗng dưng... hết bệnh, lần này là hết thiệt sự luôn á.
Té ra, người con trai, khi bị ép uổng làm đơn "tình nguyện đi chiến đấu" đã âm thầm lên kế hoạch đào ngũ. Trong thời gian ở chiến trường Cambodia, anh đã cố ý học thuộc các đường đi nước bước, học hỏi thêm tiếng Cam khá sành sõi, rồi đến một ngày "đẹp giời", anh đã đào tẩu, miệt mài chạy băng rừng Cambodia, thoát qua biên giới Thailand, vào được trại tỵ nạn . Bà già trầu sung sướng cầm lá thơ của con trai đi khoe khắp xóm, khuôn mặt hớn hở rạng ngời.
     Bà con chòm xóm lại trách:
     – Vậy là hồi nẳm nó ca bài "Mẹ Ơi, Hãy Yên Lòng" là có ý đồ nhắn nhủ bà đó, ai dè bà lại đi goánh thằng nhỏ chạy té khói, thiếu điều muốn lọi giò! Mẹ gì đâu mà kỳ cục, hổng hiểu ý con gì ráo!
     Bà già trầu biết lỗi, thẹn thùng như gái... mười tám:
     – Mồ tổ nó, cái thằng...! Ai biết đâu nà!!!

 

– Kim Loan

(Edmonton, Tháng Tư Đen 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1975, tôi mới được một tuổi; đến nay, tôi 49 tuổi, coi như đã sống một nửa thế kỷ. Nhìn lại quãng đời vừa qua, tôi thấy đời tôi thật sung sướng, cho đến năm 48. Nhưng năm nay 49 thì, như nhiều người nói, bốn chín chưa qua năm ba đã tới, tôi gặp tai nạn, do chính tôi gây ra, khiến từ nay tôi không còn muốn chường mặt ra xã hội.
Sáng nay tôi thức dậy và tôi đã lên ba tuổi rồi. Mẹ đánh thức tôi bằng nụ hôn và ôm choàng lấy tôi. Mẹ đã làm bánh kếp(*). Ôi! Ngon quá! Trời rất đẹp và chúng tôi đi dạo bây giờ đây. Ánh nắng mặt trời chói lọi mơn man trên mắt tôi. Đến công viên, tôi gặp bạn bè của tôi. Cuộc đời đẹp làm sao!
Mẹ tôi, con gái quê Sơn Tây, sống cùng thời với thi sĩ Quang Dũng, nổi tiếng với bài thơ “Đôi Mắt Người Sơn Tây”. Mẹ đi lấy chồng, gia tài vỏn vẹn một con lợn nái. Mẹ kể mỗi khi ăn no, nó lại nằm ịch ngay giữa nhà, ụt ịt chờ mẹ xoa bụng. Bà ngoại mua để mẹ nuôi, lớn lên bán được số tiền to làm vốn xem như của hồi môn lúc ra riêng...
Vấn là bạn sách đèn thân thiết với Thạnh từ thuở bé. Cha Thạnh với mẹ Vấn cũng là anh em cô cậu ruột. Do vậy, anh chị em Thạnh dù lớn hay nhỏ đều là vai trên của Vấn. Vấn lại rất hiền lành nên cả nhà Trúc đều thương mến. Suốt tuổi học trò Vấn vẫn hay đến nhà Thạnh, nơi đầy đủ tiện nghi cho hơn ở nhà để cùng Thạnh học hành...
Ngày cuối tuần nào cũng như ngày hội, đường phố khu thủ đô tỵ nạn nầy đông khách lạ lùng. Thiên hạ các vùng chung quanh đổ xô đến, thi đua cùng với du khách từ những tiểu bang khác về. Nam thanh nữ tú thướt tha. Áo quần màu mè đủ vẻ đủ dáng. Những tiếng cười dòn tan yêu đời khắp chốn...
Chiếc xe hơi chạy trên con đường hẹp, uốn lượn, hai bên là những cánh đồng lúa mì hầu hết đã được gặt xong, đây đó những bó rơm, cỏ khô được cuộn tròn nằm rải rác, những cánh rừng thưa xanh ngắt, những bụi cỏ lau màu tím hồng phất phơ trong gió, những trang trại với hàng chục con cừu, bò, và cả ngựa đang thong dong gặm cỏ, những căn nhà, quán rượu, nhà thờ…hầu hết được xây bằng đá đã xỉn màu vì thời gian, với những cửa sổ bằng kính có khung sơn trắng và kiến trúc đặc thù của vùng Yorkshire...
Kéo dài được hai năm, cuối cùng thì hắn cũng quyết định bỏ trường để về nhà đi buôn. Đây là một việc cân não mà hắn đã dằn vặt vật vã suốt một thời gian dài. Hắn là sinh viên giỏi, vốn được tuyển thẳng vào trường sư phạm, thật tình mà nói thì hắn muốn vào Bách Khoa chứ chẳng phải sư phạm, chọn sư phạm vì được miễn học phí nên miễn cưỡng chấp nhận...
Em yêu dấu: Anh sẽ kiến giải câu nói thời danh của Marcel Proust (*) để qua đó em có thể cầm nắm được trái tim nóng bỏng của anh trên tay. Marcel Proust nói rằng "Tình yêu là đem không gian đổi lấy thời gian”...
Suốt cả tuần nay Tokyo chỉ có một ngày nắng, hôm nay mưa đã tạnh thì khăn gói về vùng Kyoto/Osaka. Hai tuần nữa khi về lại đây thì những cây đào mượt mà nầy chỉ còn những cành cây cằn cỗi, phủ đầy rêu, trơ trụi. Vì thế mà chuôi kiếm của người samurai thường khắc cánh hoa đào để biểu tượng cho cuộc đời hào hùng, đẹp đẽ mà ngắn ngủi, đầy bất trắc.
Thành phố đầu tiên chúng tôi dự tính đến thăm là Thành phố Philadelphia, một thành phố đã từng là thủ đô của Hoa Kỳ trong thời kỳ đầu lập quốc mà nay nó đã trở thành cố đô. Sau đó chúng tôi sẽ đi thăm một vài di tích lịch sử, văn hoá và thắng cảnh đặc biệt của Tiểu bang Pennsylvania nếu thời gian cho phép...
Thầy ngồi trên kia, sau cái bàn rộng, chỉ có một quyển sách mỏng trước mặt và không thấy ông mở ra. Như thói quen, ông không viết bài, viết dàn bài trên bảng, phấn với bảng ít khi ông dùng tới, có thể tất cả đã được sắp xếp chuẩn bị chu đáo và có lớp lang trong đầu ông. Đúng vậy, ông vẫn từ tốn nói theo những ý nghĩ dường như vẫn có sẵn trong tâm trí. Ông nói không vấp váp, từ từ, lôi cuốn và thuyết phục. Ông có một « schéma » trình tự đi tới, đi tới không hề áp đảo...
Sau 1975 những người còn ở lại miền Nam Việt Nam không biết những ai đã nghĩ ra và những ai đã là người đầu tiên ra khơi vượt biển đi tìm tự do, để cho dòng người đi sau tiếp nối không bao giờ ngừng nghỉ nếu các trại tị nạn không đóng cửa chấm dứt chương trình cưu mang những người vượt biển. Ai cũng mơ ước, cũng tính đường đi tìm tự do tùy theo hoàn cảnh khả năng tài chính của mình. Bao nhiêu người đã may mắn đến bến bờ và cũng bao nhiêu người bất hạnh bỏ xác ngoài biển khơi!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.