Hôm nay,  

Bệnh

4/18/202313:38:00(View: 3001)
Tạp bút

sad man

Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành-trụ-hoại-không. Phàm đã sanh ra làm người thì ai ai cũng có bệnh, không nặng thì nhẹ, không nhiều thì ít, không lúc này thì lúc khác; không phải đến lúc lão mới bệnh. Bệnh có thể xảy ra ngay cả lúc còn trong bụng mẹ, lúc sơ sinh, nhi đồng, thiếu niên, thanh niên… nói chung là bệnh hiện diện ở tất cả mọi giai đoạn của đời người. Bệnh cũng không phân biệt giàu- nghèo, sang-hèn, trí-ngu, đông-tây... Tuy nhiên mỗi chủng tộc và mỗi thành phần dân cư lại có những loại bệnh đặc trưng, ví như người Việt thì có tỉ lệ bệnh về gan cực cao, trong khi người da trắng lại nhiều về ung thư da. Người Mỹ thì chiếm tỷ lệ lớn về bệnh béo phì và tim mạch, trong khi đó người vùng Địa Trung Hải thì tỉ lệ bệnh tim mạch thấp nhất thế giới. Điều này có lẽ phụ thuộc vào phước báo, tập quán ăn uống, môi trường và lối sống của họ.
     Hình như chưa có ai thống kê môt cách đầy đủ có bao nhiêu thứ bệnh trên thế gian này? Bệnh nhiều lắm nhưng nhìn chung thì chia hai nhóm chính là bệnh về thân xác và bệnh tâm trí. Thân bệnh coi vậy chứ dễ chữa hơn bệnh về tinh thần (trừ những bệnh ngặt nghèo và nan y). Thân bệnh nếu nhẹ thì cảm sốt, đau bụng, nhức đầu, ốm vặt… nặng hơn chút thì đau ruột thừa, sỏi thận, đau bao tử… nặng hơn nữa thì bệnh tim mạch, ung thư hay những bệnh mà xưa nay thường gọi là: “tứ chứng nan y”. Với trình độ khoa học, y học ngày nay thì những bệnh thuộc tứ chứng nan y nay không còn khó nữa, chẳng hạn như bệnh cùi thì ngày nay cơ bản đã chữa được và không còn lây lan. Ung thư thì cũng có thể chữa được nếu phát hiện sớm. Có một điều là khi trình độ y học nâng cao, khoa học kỹ thuật phát triển, những bệnh cũ có thể chữa trị được thì đời sống lại xuất hiện những căn bệnh mới rất nguy hiểm, tỷ như: SIDA, Ebola, Corona và nhiều loại virus mới phát sinh và liên tục cho ra những biến thể mới. Đời sống hiện đại cũng  làm tăng trưởng nhanh và mạnh những bệnh như: béo phì, tim mạch, thống phong (gout), tiểu đường, cao mỡ, cao máu…
     Thân bệnh là thế, y học và khoa học hiện đại có thể chữa trị một cách tích cực và hiệu quả nhưng tâm bệnh thì thế nào? Vấn đề này xem ra chưa được hiệu quả mấy, y học hiện đại, khoa học tân tiến với nhiều phương tiện máy móc nhưng hầu như chưa chữa trị được tâm bệnh, phần nhiều chỉ là cho thuốc an thần, thuốc ngủ để đưa con bệnh vào trạng thái mê mờ để tạm thời cắt cơn bệnh chứ chẳng phải chữa trị dứt căn bệnh.
     Tâm là một khái niệm trừu tượng vô hình, không thể thấy hay nắm bắt. Tiếng anh có thể dùng nhiều từ như: mind, soul, spirit, thought, mental… tùy hoàn cảnh và trường hợp mà dùng từ cho thích hợp. Tâm là từ Hán Việt chỉ trạng thái tâm lý, ý, tinh thần của con người. Con người có hai phần thân và tâm, thiếu một thì không thể thành con người, hỏng một thì cũng chẳng phải là một người bình thường. Tâm phải có thân để gá vào và thân phải có tâm mới có thể hoạt động hay khiển dụng. Loài vật tuy chỉ có thân nhưng vẫn hoạt động được, ấy chỉ là bản năng chứ không phải diệu dụng như con người.
     Thân bệnh thì tâm cũng khó mà vui vẻ hạnh phúc còn tâm bệnh thì thân thể sẽ tàn tạ. Tâm bệnh, nếu nhẹ thì hơi tưng tửng, thiếu tập trung, nói năng linh tinh, hành động thiếu sáng suốt; nặng hơn một chút thì khùng điên, mất trí… Khoa học có thể gọi là thần kinh phân liệt, dân gian thì gọi là bị vong nhập, bệnh đàng dưới, tẩu hỏa nhập ma. Nói chung tâm bệnh là thần kinh bị hỏng ( với nhiều mức độ khác nhau).
     Cuộc sống hiện đại với nhịp sống hối hả, căng thẳng, áp lực quá nhiều khiến cho nhiều người bị căng thẳng thần kinh (stress), tự kỷ, trầm cảm… Hiện nay những người bị tâm bệnh như thế này ngày càng gia tăng nhanh chóng, có ở mọi lứa tuổi, mọi giới tính, mọi thành phần trong xã hội; bên tây, tàu, ta gì cũng rất nhiều, phổ biến khắp nơi, nhất là ở đô thị và những thành phố lớn. Chữa trị tâm bệnh có thể dùng liệu pháp tâm lý nhưng phần nhiều người ta lạm dụng thuốc an thần, thuốc ngủ.
     Trong những thập niên gần đây, phương tây đã áp dụng phương pháp thiền để chữa trị tâm bệnh. Thiền là một phương pháp thực hành tu tập trong Phật giáo, thiền để tập trung tinh thần và tâm ý, huấn luyện tâm. Các nhà điều trị bệnh tinh thần đã nhìn thấy lợi ích của thiền và đã dùng thiền đễ chữa trị. Có nhiều bằng chứng khoa học qua ngiên cứu sóng điện não khi thực hành thiền và cũng như những hiệu quả tích cực khi áp dụng trong thực tế. Những người bị tâm bệnh khi thực hành thiền thì trở nên an hòa (calm, peace) bớt loạn động, bớt căng thẳng, tập trung tinh thần tốt hơn. Thiền không còn quá xa lạ với người Âu-Mỹ. Thiền đã được áp dụng rộng rãi và nhiều thành phần người trong xã hội tham gia: Ở Wisconsin, California có áp dụng thiền cho các nhà tù. Có đơn vị cảnh sát Canada cũng thực tập thiền thường xuyên, nhiều trường học cũng dạy thực tập thiền cho học sinh… Tất cả đều đem lại hiệu quả rất tích cực, những người tham gia thực tập thiền đều có những điểm chung là tinh thần lắng đọng, an lạc, giảm bớt căng thẳng… Có nhiều tu sĩ Phật giáo chấp nhận cho các bác sĩ và nhà khoa học dùng dụng cụ kỹ thuật tân tiến để đo điện não đồ trong lúc họ hành thiền và các nhà khoa học đã ghi nhận sự khác biệt lớn giữa một người hành thiền và người không thực tập thiền. Vì thế tâm bệnh không thể chữa trị một cách đơn giản bằng thuốc men hay bằng các phương tiện máy móc hiện đại như thân bệnh, muốn chữa trị tâm bệnh thì không thể không dùng liệu pháp tâm lý cũng như các biện pháp thiên về tinh thần. Thiền là một trong nhiều phương cách đó.
     Trên mạng xã hội có lưu truyền một câu nói vui nhưng rất thực tế và nhiều người thích thú: “muốn tìm hiểu bất cứ vấn đề gì thì cứ vào Google, tuy nhiên muốn lắng đọng và an lạc thì Google không thể giúp, chỉ có thể tìm ở thiền”. Quả thật như thế, Google, AI có thể giải đáp tất cả, có thể cung cấp mọi thông tin trên thế gian này nhưng muốn tìm an lạc, lắng đọng, bình tâm thì chỉ có thể tìm ở thiền mà thôi!
     Tâm bệnh tuy khó  trị  nhưng khi chữa trị không nhất thiết phải dùng phương tiện vật chất hay kỹ thuật, đôi khi chỉ dùng liệu pháp tâm lý, thiền cũng đem lại hiệu quả. Tuy nhiên với những ca bệnh điên hay mất trí thì vô phương cho dù máy móc và phương tiện y khoa có tân tiến nhất hiện nay.
     Cuộc sống hiện đại với lối sống độ thị, công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa cao độ. Con người quay cuồng trong cơn lốc tranh đua cơm áo, gạo tiền, đua đòi hưởng thụ, lo lắng nhà cửa, công việc… đã tạo nên áp lực cực lớn lên mọi người, tác động tâm lý rất mạnh, cộng thêm tác động của tâm lý đám đông từ những mạng xã hội làm cho tinh thần con người bất an, xáo trộn, loạn động, tăng động hoặc bị ức chế… Những căn bệnh tâm ý, tinh thần như thế thì khó có thể chữa trị bằng thuốc men, (thuốc an thần chỉ làm dịu tinh thần hay gây ngủ trong vài giờ, khi hết thuốc hết thì bệnh lại như cũ và cứ như thế thì càng ngày càng phải tăng liều thuốc và sẽ lệ thuộc vào thuốc), phẩu thuật thì không giúp ích gì trong những trường hợp này. Cách duy nhất chính là những liệu pháp tâm lý, tập yoga, tập thiền…
     Người Việt chúng ta có rất nhiều người mắc phải một dạng tâm bệnh thể nhẹ đó là ngứa mắt, ngứa ý, ngứa miệng, bệnh này không nghiêm trọng nhưng gây nhiều phiền phức. Hễ cứ thấy ai đó không vừa ý mình là lập tức ngứa miệng xỏ xiên, chê bai, đâm thọt, cà khịa. Có những cái không vừa ý mình mà trong khi chưa chắc mình đã đúng, tỷ như thấy ai đó ăn mặc không giống mình, hành xử khác mình, yêu đương không như mình, quan điểm dị biệt với mình… là lập tức ngứa ý, ngứa mắt, ngứa miệng. Cái tiến trình ngứa này trước hết khởi từ ý, khi mắt thấy, tai nghe hay tiếp xúc là lập tức cái ý nó sanh phân biệt ngay lập tức, hễ không vừa ý mình là nó xui khiến phát ra lời nói hay hành động, có nhiều khi nó còn manh động ngứa tay chân gây động thủ.
     Có một dạng ngứa tay ăn cắp vặt (mặc dù người ăn cắp vặt ấy chẳng phải nghèo khổ, thậm chí rất khá hay giàu cũng ăn cắp vặt) đây cũng là một dạnh bệnh về tâm ý vậy. Có nhiều người vì mất của, thất tình mà mang tâm bệnh đến nỗi thân xác tiều tụy, thần hồn ngơ ngáo, điên đảo tâm hồn. Có những trường hợp nặng dẫn đến tự hủy hoại bản thân, tự sát, nhảy lầu, trầm mình...Lịch sử cho thấy có những bậc trượng phu cũng mang tâm bệnh, họ bệnh vì chí lớn, chẳng hạn như Ngũ Tử Tư chỉ vì hận hôn quân, nhớ thù cha mà tâm thần xáo động sau một đêm râu tóc bạc phơ. Khuất Nguyên chỉ vì chí lớn không can gián được vua mà mang tâm bệnh đến nỗi phóng khí râu tóc xác xơ, thân hình tiều tụy và cuối cùng phải trầm mình ở sông Mịch La. Ở thế gian này tâm bệnh thật sự đáng lo hơn thân bệnh, khó trị hơn thân bệnh.
     Ở phương diện quốc gia thì độc tài là một loại tâm bệnh cực nặng. Những tay độc tài muốn mọi người phải theo mình, nghe mình, phục tùng mình mà không biết rằng mình sai trái, vô lý, tàn bạo. Độc tài có một điểm chung là tham muốn đến cuồng điên được trường tồn, trường trị, thâu tòm tất cả, giữ lấy mọi thứ. Căn bệnh tinh thần của những tay độc tài quả là đại họa cho dân và đất nước, Đã độc tài thì thường hoang tưởng, chúng ta có thể thấy những trường hợp cụ thể như: Hitler, Mussolini, Pinochet, Saddam  Hussein, Gaddafi, Assad, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, ba đời họ Kim (Bắc Hàn), Putin, Khomeini…
     Độc tài, hoang tưởng là căn bệnh tâm lý cực kỳ nghiêm trọng vì những kẻ này nắm vận mệnh quốc gia và dân tộc, nó gây ra bao nhiêu tàn hại, đau thương cho con người cho xã hội. Loại tâm bệnh này khó có thể chữa trị nếu không muốn nói là không thể chữa trị, thực tế chứng minh chưa thấy một nhà độc tài hoang tưởng nào có thể trở lại tâm ý bình thường. Những tay độc tài hoang tưởng và những kẻ sát nhân hàng loạt đều có tâm ý rất gần nhau và đều vô phương chữa trị. Chỉ có một điểm khác là những tên sát nhân hàng loạt nhưng không có quyền hành thì chỉ có thể giết vài người hay vài mươi người. Còn những tay độc tài nắm quyền hành thì chúng có thể giết ngàn người, vạn người, triệu người… và làm tàn lụi cả một quốc gia hay nhiều quốc gia.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0423)

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.