Hôm nay,  

Thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Phần II)

16/04/202310:45:00(Xem: 3044)


sml_mv_byreneecomet

                                                          Nhà ở của Washington trên đỉnh đồi


Ngôi nhà của Tổng Thống George Washington ở Mount Vernon


Sau khi thăm thú và chiêm ngưỡng những tượng đài kỷ niệm trong quần thể kiến trúc lịch sử, những bảo tàng viện, những vườn cây (Botanic garden) và chim muông ở trung tâm Thủ đô, chúng tôi lên xe tiến thẳng về Mount Vernon, trang trại của Tổng thống George Washington, nơi ông đã sống ở đây trong lúc sinh thời. Trang trại được tọa lạc trên một ngọn đồi thơ mộng bên dòng sông Potomac.           
      Căn nhà chính được xây gần như ngay trên đỉnh đồi, khá khang trang và rộng lớn. Nhà có kiến trúc cổ, hai tầng, có nhiều phòng ngủ cho gia chủ và phòng ngủ dành cho khách, rồi nào phòng tiếp khách, phòng đọc sách, bếp, phòng tắm ... Mọi phòng đều được tân trang đẹp đẽ, tuy nhiên chúng vẫn giữ được những nét cổ kính nguyên thủy lúc ban đầu. Hàng hiên phía sau nhà nhìn thẳng xuống dòng sông Potomac chảy phía dưới chân đồi. Từ hàng hiên này, ta có thể nhận ra, hẳn là cảnh trí phải đẹp lắm khi ngắm nhìn dòng sông Potomac chảy lững lờ phía dưới vào những buổi chiều tà, hay khi ngồi nhìn mặt trời lặn, hay những đêm trăng sáng.  
      Phía sân sau là một dẫy nhà bên hông, gồm những gian nhà dành cho gia nhân, nhà chứa cỗ xe ngựa kéo Washington thường dùng khi đi xa, rồi nhà ướp thịt cho mùa đông... 
                             

blank
Mộ cũ và mới của Washington
                                                  

Nếu ta lần theo con đường nhỏ nằm ở phía sau nhà một quãng không xa, ta sẽ gặp
ngôi mộ cũ của Washington, ngôi mộ thật đơn giản, nếu không có bảng hướng dẫn thì không ai biết đó đã từng là ngôi mộ của vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Tiếp tục theo bảng hướng dẫn, ta sẽ đi từ ngôi mộ cũ để đến ngôi mộ mới của Washington. Ngôi mộ mới trông khang trang hơn nhưng vẫn giữ những nét bên ngoài thật đơn giản, khiêm tốn nhưng trang nghiêm. Người gác ngôi mộ luôn nhắc nhở du khách nên giữ yên lặng tuyệt đối để không làm kinh động người nằm trong mộ đang an giấc. Đứng trước ngôi mộ của người “cha đẻ” ra đất nước tự do và dân chủ nhất thế giới này, tôi liên tưởng tới ngôi mộ của những vị vua chúa dưới triều đại phong kiến ngày xưa và những lãnh tụ ngày nay trên đất nước mình. Thế mới biết, nền tự do dân chủ của một cường quốc như Hoa Kỳ được xây dựng nên để làm nền tảng cho hậu thế, đã bắt đầu bằng những việc nho nhỏ, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa như thế này. Thật đáng ngưỡng mộ thay. Tôi nghiêng mình chiêm ngưỡng trước linh cữu Tổng thống Washington với tư cách của một công dân Hoa Kỳ. 
      Thật ra, cái thích thú khi đến thăm trang trại Mount Vernon chính là được xem những hình ảnh, những đoạn phim (movies, video clips) trưng bày rải rác trong ngôi nhà, mô tả những sự kiện liên quan tới cuộc đời chiến binh và sự nghiệp của Washington. Ta có thể coi đây như là một “bảo tàng viện” thu nhỏ ghi lại một số lớn những biến cố thăng trầm quan trọng trong thời kỳ người dân thuộc địa chiến đấu chống lại sự cai trị của người Anh để giành độc lập và để xây dựng nên một quốc gia tự chủ, mà vị tướng Tổng tư lệnh chỉ huy “Quân đội Giải phóng” lúc đó không ai khác hơn là tướng Washington tài ba. Tài liệu lịch sử của thời lập quốc tại đây thì nhiều lắm. Nhưng có một đoạn phim làm tôi xúc động nhất, đó là đoạn phim diễn tả lại trận đánh ở thành phố Trenton, bên bờ sông Delaware River thuộc phía New Jersey. Đây là trận đánh phản công vùng lên từ tình thế tuyệt vọng của Washington xẩy ra vào mùa đông cuối năm 1776, với một lực lượng dưới ba nghìn (3.000) người đói rét, ô hợp phải chiến đấu với ba mươi lăm nghìn (35.000) quân đánh thuê tinh nhuệ người Đức do nước Anh thuê mướn. Sự chiến thắng của trận đánh này có thể được coi là một trong những trận đánh quan trọng và quyết định trong công cuộc đưa cuộc chiến đấu “Giải Phóng” của Hoa Kỳ đến thành công. 
blank
Bức danh họa trận chiến Trenton


Phía dưới chân đồi Mount Vernon có một khu đất rộng diễn lại sinh hoạt cuộc sống hàng ngày của một
ngôi làng cổ xưa rất sinh động, có lẽ vào thời kỳ của thời lập quốc. Từ đây chúng tôi dùng phà chạy dọc theo sông Potomac đến một thành phố nhỏ rất dễ thương bên bờ sông. Nhân dịp này chúng tôi được ngắm cảnh hai bên bờ sông đầy thơ mộng và đầy thú vị. 

Nghĩa Trang Quốc Gia và ngôi nhà của tướng Robert E. Lee


Chúng tôi có dịp đi thăm nghĩa trang
Arlington National Cemetery (Nghĩa Trang Quốc Gia) vào một ngày nắng đẹp. Nghĩa trang Arlington nguyên thủy là trang trại của tướng Robert E. Lee, rộng 2,5 km2, bị chính quyền thời đó tịch thu làm “Nghĩa Trang Quốc Gia” vì tướng Lee được coi là người có tội với đất nước và là kẻ phản bội trong hàng ngũ quân đội vì lý do tướng Lee đã từng phục vụ cùng họ trong nhiều năm trước đó, sau lại bỏ hàng ngũ để trở thành Tổng tư lệnh quân đội “miền Nam” (Confederate) trong chiến tranh Nội Chiến (1861-1864). Nghĩa Trang Quốc Gia này dành cho tất cả những người có công với tổ quốc Hoa Kỳ, kể từ tổng thống, tướng lãnh tới binh sĩ vô danh trong các cuộc chiến liên quan tới Hoa Kỳ như cuộc chiến tranh Thế Giới Lần Thứ Hai, chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam ... và những nhân vật nổi tiếng khác trong nhiều lãnh vực. 
       Mục đích ban đầu của chúng tôi tới đây là tìm ngôi mộ của kiến trúc sư Pierre Charles L’Enfant, một nhân vật như đã nói ở trên. Thật vất vả mới tìm được nó vì ngôi mộ nằm riêng rẽ một mình trên đỉnh đồi cao nhất tại trung tâm nghĩa trang. Ngôi mộ trông rất đơn giản, nhưng ở vị trí trang trọng nhất, từ đấy ta có thể nhìn thấy tổng quát toàn thể Thủ đô Washington phía xa xa. Đặc biệt nữa là ngôi mộ nằm ngay trước cửa của một ngôi nhà lớn, đó là nơi sinh sống của gia đình tướng Robert E. Lee trước khi cuộc Nội Chiến xảy ra. Chúng tôi được thêm cơ hội vào thăm ngôi nhà của một nhân vật nổi danh trong lịch sử Hoa Kỳ đã từng sinh sống ở đây.
      Ngôi nhà ở của gia đình tướng Lee khá lớn, hai tầng, gồm nhiều phòng ốc sang trọng, xinh xắn và cũng là nơi tiếp khách thượng lưu, danh tiếng thời bấy giờ. Tướng Lee thuộc một gia đình quý tộc ở Virginia, có liên hệ thân cận với Tổng thống Washington, và tướng Lee là “chắt” rể (?) (theo sơ đồ gia phả tướng Lee) của Tổng thống George Washington được trưng trong ngôi nhà. Qua việc thăm ngôi nhà này, tôi biết được một chi tiết nhỏ khá lý thú mà tôi chưa được biết trước đó. Sau cuộc đầu hàng của “Miền Nam” (Confederate) trước sức mạnh của “Miền Bắc” (Union), tướng Lee bị tước quyền “công dân Hoa Kỳ” và mãi cho tới năm 1975, Tổng thống Gerald Ford mới ký quyết định trả lại quyền công dân lại cho ông ngay tại trên bàn giấy trong phòng làm việc của tướng Lee xưa kia. Nói chung, những di tích còn lại trong ngôi nhà này có rất ít dấu vết lịch sử mà chủ yếu là sinh hoạt gia đình. Khác với ngôi nhà của Tổng thống George Washington ở Mount  Vernon, tuy cũng là nơi sinh hoạt gia đình của tướng Washington nhưng ở đó chủ yếu ghi lại những hình ảnh cuộc chiến đấu oai hùng trong những trận chiến lừng danh của thời kỳ “Chiến Tranh Giải Phóng” vào thời kỳ đầu lập quốc mà ông từng là Tổng tư lệnh quân đội “Giải Phóng Quân”. 

Đài tưởng niệm Ngũ Giác Đài


Nơi cuối cùng chúng tôi đến thăm là một di tích lịch sử mang tên The National 9/11 Pentagon Memorial (Đài Tưởng Niệm Quốc Gia 11/9 của Lầu Năm Góc), tọa lạc ngay bên ngoài Ngũ Giác Đài (Pentagon - Bộ Quốc Phòng Mỹ). Đây là đài tưởng niệm dành riêng cho sự kiện bi thảm xảy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Tất cả 184 người thiệt mạng trong cuộc tấn công bởi cuộc cướp máy bay dân sự American Airlines Flight 77 của bọn khủng bố rồi đâm nhào xuống một “cánh” của Ngũ Giác Đài. Mỗi nạn nhân được ghi tên trên những “bảng ghi nhớ” để tưởng niệm ở đây. Trong số 184 người thiệt mạng có 125 người thuộc nhân viên Ngũ Giác Đài và 59 người là hành khách và phi hành đoàn trong máy bay.
      Những sự kiện lịch sử Hoa Kỳ xảy ra tại Thủ đô Washington quả thật không ít, phải nói là nhiều lắm, nhưng chúng tôi chỉ xin được nhắc thêm đến tên một nhân vật có liên quan đến bài Quốc ca Hoa Kỳ, đó là con đường mang tên Francis Scott Key, gần Ngũ Giác Đài, để vinh danh người đã làm bài thơ bất hủ, được viết lên trong sự kiện lịch sử khi xảy ra trận chiến quân Anh tiến đánh Washington D.C đã được kể ở trên. Và sau này bài thơ ấy đã trở thành lời ca của bài Quốc ca Hoa Kỳ. (Xin đọc bài “Baltimore với hải cảng Inner Harbor” của cùng người viết). 
 

Sinh hoạt của cộng đồng Việt Nam


blank
Như mọi cộng đồng người Việt khác sinh sống rải rác trên nước Mỹ, cộng đồng người Việt ở Thủ đô Washington cũng có những sinh hoạt không kém nhộn nhịp về mọi mặt so với những thành phố đông đảo người Việt khác như ở miền Nam California, miền Bắc California hay ở Houston và Dallas của Texas. 
      Hoạt động kinh tế và thương mại. Những sinh hoạt kinh tế, thương mại đa dạng của cộng đồng người Việt Nam tại Washington nói riêng và trên toàn thể nước Mỹ nói chung đã đóng góp, tuy còn khiêm tốn nhưng tích cực cho sự thịnh vượng của Hoa Kỳ. Một số sinh hoạt thương mại chính ở đây tập trung vào khu thương mại Eden Center. Nơi đây có nhiều văn phòng dịch vụ, cửa hàng ăn uống lẫn siêu thị. Có lẽ vì ảnh hưởng của dịch cúm Covid-19 nên một số bàn ăn được bày ra ngoài trời. Nói chung không khí sinh hoạt ở khu này rất sinh động. Phần lớn những người đến đây vẫn mang khẩu trang.

Sinh hoạt văn hóa


Chúng tôi cũng đã có cơ hội gặp hai chị Lê Thị Ý và chị Lê Thị Nhị, cả hai đều là nhà thơ và nhà văn, cùng là hiền muội của nhà thơ nổi tiếng Vương Đức Lệ (tên thật là Lê Đức Vượng, người được giải thưởng hạng nhất toàn quốc về thơ thời Đệ Nhất Cộng Hòa). 
      Nhà thơ Lê Thị Ý nổi tiếng vì thơ chị hay, đặc biệt được nhiều người yêu thích qua những bài thơ của chị được phổ nhạc, trong đó có bài “Ngày mai đi nhận xác chồng” do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Chị tặng tôi vài tập thơ đã được in như “Quê hương và người tình”, “Vùng trời yêu dấu” và tuyển tập thơ văn “Quê hương và kỷ niệm” chị viết chung với các nhà văn và nhà thơ khác như Phượng Kiều, Vương Đức Lệ và Lê Thị Nhị.           
      Nhà văn kiêm nhà thơ Lê Thị Nhị chắc không xa lạ với cộng đồng người Việt ở Washington D.C bởi những hoạt động đóng góp văn hóa của chị ở vùng này từ nhiều năm qua. Người chị nhỏ nhắn nhưng những hoạt động của chị thì không nhỏ chút nào, một người làm việc xông xáo, nhiệt tình và không biết mệt mỏi. Chị đã và đang cố gắng giữ gìn, phát triển ngôi nhà “Nhà Việt Nam” do chị sáng lập. Nơi đây nhiều sinh hoạt văn hóa cộng đồng được diễn ra cũng từ nhiều năm nay, đặc biệt cho giới trẻ. Tôi đã được chị tặng cho vài tác phẩm của chị đã được in như “Đôi mắt hoàng hôn”, “Sóng thời gian”. Và chị cũng không quên tặng tôi ba cuốn thơ của nhà thơ Vương Đức Lệ dù tôi đã có ba cuốn thơ ấy trong tủ sách do chính anh Vượng gửi tặng gồm “Thơ tình Vương Đức Lệ”, “Thơ giữa đời thường”, “Thơ Vương Đức Lệ” và cộng thêm tập thơ “Thơ Mai Trung Tĩnh” của nhà thơ Mai Trung Tĩnh. Chúng tôi có cơ hội được đến thăm viếng và đốt nén nhang trên mộ anh Vượng ở một nghĩa trang tại Washington. 
      Chị Nhị nay vẫn còn tiếp tục là chủ nhiệm của tờ nguyệt san Thế Kỷ Mới kế thừa từ anh Lê Đức Vượng trong nhiều năm nay, chị Hồng Thủy là chủ bút cùng với ban biên tập hùng hậu gồm những cây viết nổi tiếng ở vùng Washington nói riêng và hải ngoại nói chung. Tờ nguyệt san Thế Kỷ Mới bị tạm đình bản trong hai năm qua do dịch Covid-19, nay mới tục bản trở lại được vài ba số. Nhắc đến chị Hồng Thủy tôi không thể quên được buổi ra mắt tác phẩm “Những cánh hoa dại mầu vàng” của chị ở Washington D.C cách đây hơn mười năm (2010) mà tôi đã có cơ hội tham dự. 
      Hoạt động xã hội, hoạt động chính trị của cộng đồng Việt Nam ở nơi đây cũng rất khởi sắc. Một đài phát thanh và truyền hình của cộng đồng dành cho vùng Thủ đô Washington. Tôi có dịp được vào thăm buổi phát hình tin tức bằng tiếng Việt của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA), tiếng nói chính thức của quốc gia Hoa Kỳ.
     Thế mới biết sinh hoạt của cộng đồng người Việt Nam ta ở Washington D.C thật nhộn nhịp và đủ mầu sắc. 

Tình nghĩa


Chúng tôi đến Washington D.C, không phải chỉ để được hưởng những cảnh đẹp, những di tích lịch sử, món ăn Việt Nam ngon miệng, mà còn có nhiều điều mà chúng tôi sẽ luôn lưu lại trong lòng và nhớ mãi không quên, ấy là tình cảm nồng ấm mà chúng tôi đã nhận được từ sự tiếp đón ân cần của những người bạn thân quen đã lâu năm nay mới gặp lại như một số các bạn đồng khóa, đồng môn hay một số các bạn đồng nghiệp cùng làm việc tại Việt Nam ngày xửa ngày xưa, và từ những người chúng tôi vừa được quen biết lần đầu đang sinh sống ở đây.  
        Đặc biệt trong chuyến đi chơi kỳ này, một cơ duyên hy hữu, tôi đã được gặp nhà văn Nguyễn Văn Tới, người đã từng đoạt giải thưởng hạng nhất viết về đề tài “Viết Về Nước Mỹ” do tờ báo Việt Báo (Nam California-Orange County) đề xướng hàng năm, và nhà thơ Nợ Ơn Lê Văn Tư.
       Chúng tôi trở về San Jose, mang theo trong lòng biết bao nhiêu cảnh đẹp, biết bao nhiêu hiểu biết, biết bao nhiêu tình nghĩa, và biết bao nhiêu ân tình. Xin cám ơn tất cả mọi người.

       Thương nhớ Hoa Thịnh Đốn.


– Nguyễn Giụ Hùng

(4/2022)

       

Ghi chú: Tài liệu lịch sử được sưu tầm và gạn lọc từ những sử liệu Hoa Kỳ.


blank

Nhà văn Nguyễn Văn Tới (trái) và NG Hùng (phải)

tại Washington D.C (4/2022).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.