Hôm nay,  

Câu đối ngày Tết

22/01/202314:19:00(Xem: 3382)
Tùy bút ngày Xuân

xcau-doi

Vốn là một sản phẩm của nền Hán học nhưng khi nền Hán học cáo chung thì chơi câu đối vẫn là một thú chơi tao nhã. Ngày xưa mỗi độ xuân về, nhà nhà trưng câu đối. Bậc thức giả thì câu đối đầy ý nghĩa thâm sâu, điển cố xa xưa. Người bình dân thì câu đối giản dị hơn, gần gũi đời sống hằng ngày hơn; chung quy cũng là nói lên chí hướng, chúc phúc, cầu may mắn, gởi gắm tâm tư…

 

Những năm gần đây phong trào viết thư pháp, chơi câu đối có vẻ phát khởi khá nhộn nhịp. Tuy nhiên bây giờ không còn nhiều người biết chữ Hán nên viết bằng chữ Việt. Có khá nhiều lời khen, chê nhưng dù gì đi nữa đây cũng là một cái thú tao nhã, thanh lịch làm phong phú thêm đời sống văn hoá vừa duy trì chút ít truyền thống.

 

Chuyện kể rằng, một năm nọ vào buổi sáng Nguyên Đán vua Lê Thánh Tông cùng vài cận thần bất ngờ viếng thăm một ngôi chùa ở kinh thành. Hoà thượng trụ trì đang tụng kinh, thấy vua đến bất chợt nên luống cuống đánh rơi dùi. Sứ giả nhanh tay nhặt lấy đưa nhà sư. Vua Lê hứng khởi liền ra vế đối:

 

Đường thượng tụng kinh sư sử sứ.

 

Một lát sau vẫn chưa thấy ai đối, chỉ thấy Trạng Lương Thế Vinh ra ngoài sân giả vờ lảo đảo say. Vua hỏi: "Sao khanh không đối mà làm điệu bộ quái lạ thế?" Trạng thưa: “Thần đối rồi đấy!" Vua lại hỏi: "Ta vẫn không hiểu."  Trạng bèn đọc:

 

Đình tiền tuý tửu phụ phù phu.

 

 Mọi người cười giòn vỗ tay tán thưởng. Cũng vào một sáng xuân, tại kinh đô Phú Xuân, quần thần và hoàng gia vào chúc phúc vua, hôm ấy có cả sứ giả phương Bắc. Minh Mạng hứng khởi ra vế đối:

 

Bắc sứ lai triều.

 

Chưa có ai đối kịp thì Thái tử Hồng Bảo nhanh nhẩu đối:

 

Tây Sơn phục quốc.

 

Câu đối làm cả triều đình bàng hoàng. Thái tử vô tình phạm lỗi chết người. Vua giận dữ thét lên: “Tây Sơn phục quốc thì đất đâu cho mày làm vua?” Sau này Thái tử bị truất vì nhiều lý do nhưng cũng có một phần từ câu đối tai hại này! Đây chỉ là giai thoại chứ  không phải chính sử, chưa chắc đã là sự thật, nhân ngày Tết nhắc lại góp vui thôi.

 

Có một đôi câu đối rất quen thuộc cho ngày Tết, nhiều người biết, nhiều nhà treo:

 

Thiên thiêm tuế nguyệt nhân thiêm thọ,

Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường.

 

 

Thật hay, thật đẹp, đầy đủ ý nghĩa… Lời chúc trọn vẹn thọ, phúc… không khí xuân tràn cả đất trời, nhưng có một chút hóm hỉnh sâu xa: Nếu đem hai chữ cuối ghép laị: THỌ ĐƯỜNG thì ra một cỗ quan tài, ngày Tết mà chúc thế này thì chết! Nhiều vị viết chữ, cho câu đối không hiểu cái thâm thúy này nên thấy viết tặng rất nhiều trong dịp Tết.

 

Những năm thời bao cấp, đời sống vô cùng khốn khó, "gạo châu củi quế". Những người làm nghề giáo thì còn khốn khổ hơn, vì thế có người tức cảnh sinh tình viết như sau:

 

Tối ba mươi thầy giáo tháo giầy ra chợ bán,

Sáng mồng một giáo chức dứt cháo đợi người mua.

 

Có hai câu đối mà hầu như mọi người đều biết, có thể nói rất “kinh điển”, rất tiêu biểu cho mùa xuân, ngày Tết:

 

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ,

Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh.

 

Hoặc là:

 

Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột,

Om thòm trên vách bức tranh gà.

 

Mùa  xuân đang ngấp nghé bên thềm, mùa xuân đem laị cái vui, cái mới, cái hy vọng cho cuộc đời. Mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, của hy vọng. Mùa xuân dân tộc gắn liền với đạo Phật cả ngàn năm rồi, xuân dân tộc cũng còn gọi là xuân Di Lặc (Ngày vía của ngài). Mùa xuân lên chùa lễ Phật, viếng tổ, tảo mộ, tưởng nhớ tổ tiên ông bà… Nếp sống bao đời nay của người Việt ta. Ngày xưa mỗi độ xuân về, dù là dân thị thành hay thôn quê; dù là người hay chữ hay người ít chữ, ai cũng đến thầy đồ xin cặp câu đối về treo trong nhà mừng ba ngày Tết; cái nếp trưng câu đối, chơi câu đối vậy mà hay. Qua câu đối người ta có thể đoán biết gia chủ là hạng người nào trong xã hội.

 

Chuyện câu đối thì dài dài, Tiểu Lục Thần Phong cũng xin góp mặt mua vui cho bạn đọc trong những ngày xuân:

 

Phật ngự toà sen cầm hoa sen truyền trao chánh pháp,

Sư toạ kiết già tụng lăng già thọ nhận thanh quy.

 

Tuệ Như Lai tử thông kinh quán sử đại bi vị tứ chúng đương thân hộ pháp thọ ấn phục quang tăng thống viện,

Sĩ đại trượng phu liễu triệt cầm thi vô úy độ quần sanh nhất tâm phù gia truyền đăng tinh tấn thị ngạn am.

 

Ông Dương tuổi mùi dáng dấp như rồng năm mèo tí tởn,

Bà Ngọ tuổi ngựa  điệu bộ tợ rắn năm chó dần lân.

 

Tết đến quan đỏ ấm áp quà cáp tùm lum khách khứa đàn em nhớ vui quá độ,

Xuân về dân đen lạnh lẽo áo cơm cạn kiệt thân thuộc láng giềng quên buồn hắt hiu.

 

Cha quan quyền ngày tháng kết bè phái đấu đá kèn cựa có tiếng ăn bẩn chẳng chừa chi tham lam lòng không biết đủ,

Con công tử quanh năm gầy gái gú đàn đúm dậm dật nổi danh chơi dơ vung vãi nào có tiếc phá táng tâm bất cần lo.

 

Dân Ch hao hao thiên t chìu lòng ly phiếu lp dưi chính tr không chê bài bn ý nguyn cui cùng phi thng,

Cộng Hòa hơi hám hu khuynh tn dng ưu thế tng trên quan quyn bt k mưu gian tâm tư hàng đu không thua.

 

Hoa khai phú phát thanh minh chính tr kinh k cc siêu đi đa trưng giang vn vt đng thng,

Kỳ pht quý phi bình đng dân quyn giáo ngh khai phóng cao sơn khoát hi nhân qun d mưu sinh.

 

Thân Tây hưởng lợi kinh tế kỹ thuật tối tân phát triển dân chủ nhân quyền toàn vẹn sơn hà lãnh thổ,

Theo Tàu chỉ tổ thương mại công nghệ lạc hậu củng cố độc tài toàn trị hao hụt biển đảo quốc gia.

 

Sau đây bút giả cũng có vài câu thách đối, xin mời huynh đệ cùng góp vui:

 

Nhân dân tệ quyền lực không tệ quan vơ vét thậm tệ nên nhân dân tệ,

 

Cây sầu đông chẳng ở đồng sâu đâu phải đầu sông sao đông sầu đồng su,

 

Bao dung nhng tưng không chp nht nào ng bng d âm thm bung dao tung võ khí,

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 01/23)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.