Hôm nay,  

Di Chúc

29/10/202100:00:00(Xem: 3590)

Ông tới đó được không? Được chứ, mà mấy giờ thì cô có mặt ở đó?  Khoảng mười giờ sáng, tôi mong được gặp ông. Bà cụ nhắc tên ông hoài. Lúc tôi đến thăm lần cuối, bà ta cứ lập đi lập lại tên ông và nhất định nhét cái bao thư vào bóp của tôi. Có gì trong đó vậy? Tôi không biết, hình như giấy tờ hay tiền bạc gì đó, ông là người thừa kế duy nhất của bà cụ mà; biết đâu...

Trời mù sương. Cái lạnh buổi sáng mọc vẩy trên da. Người đàn ông trung niên ngập ngừng trước cánh cửa gỗ to bản khép hờ. Gió vỗ vào tường đá, dội ngược lại thân thể chàng, làm bay phất phơ hai vạt áo choàng mùa thu và đập phành phạch vào hai ống chân chàng. Chùi chân trên tấm thảm nhỏ theo thói quen xong, chàng chậm rãi bước vào tiền sảnh toà dinh thự. Ở đây không khí như keo đặc lại. Cái mùi ẩm mốc lạ lẫm xộc vào mũi chàng. Chàng nhìn quanh quất khoảng hành lang hẹp. Rồi mắt chàng dừng lại ở tấm bảng nhỏ mầu đen gắn bên một cánh cửa mầu cánh gián. Những chữ viết bằng phấn trắng. Chàng đọc được cái tên Việt Nam. Ngập ngừng trước cửa một chút, chàng thong thả bước vào. Ánh sáng nhạt nhòa của một ngày mùa thu ẩm ướt bên ngoài không lọt qua được những khung cửa kính lọc ngầu đục, hắt vào khoảng không gian trước mặt chàng cái hắt hiu, tù túng.
           
Cô nhân viên sở xã hội chưa tới. Chàng nhìn quanh. Một chút thắc mắc vẩn đục ý nghĩ chàng. Rồi chàng đuổi vội ý nghĩ không xứng đáng ấy đi. Bà cụ nghèo, lấy đâu ra của nổi của chìm mà để lại cho chàng. Chiếc quan tài gỗ nằm chênh vênh trên những chân ghế gỗ èo uột. Chẳng có ai trong gian nhà vắng tanh vắng ngắt ấy. Một cái tên Việt Nam ghi ngoài cửa, một chiếc quan tài lẻ loi bên trong. Vậy là không lộn với ai được, đúng bà già ở đây rồi. Chàng thầm nhủ và lặng lẽ bước về phía áo quan.
            
Nắp áo quan đóng kín. Chàng muốn nhìn mặt bà cụ một lần chót. Nhưng chàng ngại cái không khí âm u và thứ ánh sáng của gian nhà không đèn điện, như dạt về từ cõi âm, sẽ làm khuôn mặt người chết thêm tiều tụy. Chàng yêu những hình ảnh đẹp. Chàng mơ ước thấy lại nụ cười của người quá cố. Mới thứ bảy tuần trước, lúc ghé thăm, coi dùm cái cổ tay bị sưng của bà cụ lúc bà ngã chống tay xuống sàn nhà, chàng còn thấy bà cụ cười móm mém hàm răng rụng gần hết. Vậy mà bây giờ muôn trùng xa cách. Cho dù nắp áo quan đậy kín chàng vẫn hình dung được bà cụ nằm đó, đôi cánh tay xuôi xuống hai bên thân người.
            
“Sao không vợ con gì hết vậy. Ở một mình mãi, buồn chết!”
           
 “Từng này tuổi rồi ai mà dám lấy nữa, cụ à.”
            
“Ông cứ nói vậy. Tôi có con cháu gái, nó mới hai mươi ba tuổi...”
            
Chàng vừa xức dầu nóng trên cổ tay người đàn bà vừa mỉm cười một mình. Bà cụ kể hoài với chàng về cô cháu gái mới hai mươi ba tuổi bên Việt Nam. Chàng định có lúc nào đó sẽ hỏi coi cô ta là cháu nội hay cháu ngoại của bà.
            
“Có vợ nó lo cho đỡ vất vả cái thân.”
            
Thấy chàng ngần ngừ, bà cụ tiếp, “Đàn ông lấy vợ trẻ là cái lẽ tự nhiên, chỉ có đàn bà lấy chồng nhỏ hơn mình mới là kỳ khôi...”
            
Chàng vẫn loay hoay với cái cổ tay gầy gò, khẳng khiu, sưng múp lên ở chỗ khớp xương.
            
“Hay là ông tính ở vậy?” Bà cụ vừa nhăn nhó vì đau vừa thích thú tra vấn chàng.
            
“Chắc vậy quá cụ à.”
            
“Cái nhà ông này!” Bà lườm chàng, rồi dịu dàng, hệt như bà nội chàng thuở trước, “Năm nay bao nhiêu tuổi rồi nào?”
           
 Chàng cộng thêm bốn tuổi vào cái con số năm chồng chất trên vai rồi trả lời với nụ cười tinh quái, “Dạ bốn mươi sáu, cụ ạ.”
            
“Bốn mươi sáu lấy vợ hai mươi ba là chuyện tự nhiên. Rồi cũng sinh con đẻ cái. Đàn bà mau già hơn đàn ông, đẻ đái hai ba lần là già hơn chồng ngay thôi.”
            
Như thích thú với điều chính mình nói ra, bà cụ móm mém một nụ cười lấp lánh niềm vui. Rồi cụ chợt trở nên nghiêm trang, “Liệu có hỏng cái bàn tay không, bác sĩ?”
            
Chàng tự tin, “Không đâu cụ ạ.”
           
 “Sao nó rức thế?”
            
“Thì cái dây chằng khớp nó bị dãn quá đấy. Không sao, cụ cứ yên tâm, dưỡng sức.”
            
Bà cụ nhìn vào mắt chàng, đôi con mắt kéo mây làm lòng chàng nao nao, “Không có bác sĩ chắc tôi chết lâu rồi.”
            
“Cụ cứ nói thế!”
            
“Thật đấy. Ông bác sĩ à!”
           
 Bà cụ vừa nói vừa vặn mình cho đỡ mỏi, xương cốt lỏng khỏng dãn ra lụp cụp phía dưới hai ba lớp áo.

“Cụ mỏi lưng để cháu đấm lưng cho.” Chàng đề nghị rồi kéo chiếc ghế sát lại cạnh giường, nắm hai tay lại, đấm khe khẽ lên lưng bà cụ. “Với lại cụ đừng gọi cháu là bác sĩ, tây nó nghe được nó kiện chết.”
            
“Đứa nào dám kiện nhà ông?”
           
 “Thật đấy!”
            
“Tôi đố đứa nào dám kiện.”
           
“Thôi cụ à. Để cháu mở ti-vi cho cụ coi nhá.”
            
Không đợi bà cụ trả lời, chàng nhanh nhảu đứng dậy, xăm xăm đi lại góc phòng, vặn nút cái ti-vi cũ xì lên. Tiếng xè xè phát ra từ hệ thống loa rạn vỡ, rồi màn ảnh nhá lên muôn ngàn hạt tuyết trắng nhảy múa nhức cả mắt nhìn. Chàng vặn nút đổi đài. Cũng vẫn tiếng xè xè chói tai và những hạt mưa tuyết lăn tăn trên màn ảnh xám ngoắt.
            
“Làm gì có đài mà coi!”
            
“Ừ nhỉ” Chàng thất vọng vặn nút tắt. Tiếng xè xè đứt ngang và những hạt tuyết vụn biến mất.
            
“Nhà nước họ nuôi ngày hai bữa đã là quá rồi, ai rỗi hơi gắn đài ti vi cho mình coi nữa chứ. Cái ông này rõ là lẩn thẩn. Lần nào cũng đòi mở ti-vi.”
            
Chàng ngượng ngùng trước cái khoảnh bền bỉ của trí nhớ bà cụ. Mà đúng vậy, chàng đến săn sóc bà lão bao nhiêu lần rồi mà vẫn không nhớ là chiếc ti-vi trắng đen cũ rích nhà thờ mua được ở tiệm đồ cũ nào đó đem cho, chỉ bắt được có mỗi một đài địa phương mà hình ảnh thì cũng lúc được lúc mất.

Để chữa thẹn, chàng cố cười thật trẻ thơ, “Lẩn thẩn thật, có mỗi cái đó mà quên hoài!”
            
“Chịu cháu gái tôi đi. Lấy nó, nó nhắc cho. Cưới nó xong, bảo lãnh nó qua bên này. Bác sĩ thì được vợ, còn tôi thì được đứa cháu.”
            
Bà cụ cười với chàng thật tươi. Nụ cười móm mém làm lòng chàng mềm đuối.
            
“Mà sao cái nghề thầy thuốc thì ông lại không quên là thế nào nhỉ?”
            
Chàng ngồi rũ xuống chiếc ghế bên giường bà cụ, “Có lẽ tại cháu mê cái nghề ấy quá.”
            
“Vậy mà không cho người ta hành nghề!”
            
“Cháu cũng có hành nghề đấy chứ.”
            
“Ở đâu nào, phòng mạch chỗ nào? Kể tên bệnh nhân tôi nghe xem.”
            
“Thì cụ là một này...”
           
“Ai nữa?”
           
 “Thì cháu nữa này.”
            
Bà cụ không hòa vào được với màn diễu của chàng, “Người ta kỳ thị đấy ông bác sĩ ạ!”
            
“Chẳng phải đâu.”
            
“Tôi phải làm ra chuyện.”
            
“Thôi cụ à. Cháu cũng chả thích nhiều bệnh nhân đâu.”
            
“Cái nhà ông này, bác sĩ mà lại không thích nhiều bệnh nhân. Không thấy mấy ông mấy bà bác sĩ kia đấy à, từ sáng sớm đến tối mịt, gạt ra không hết khách.”
            
“Cháu chả thích vậy.”
            
“Hay là chịu con cháu gái tôi đi.” Bà cụ đổi đề tài đột ngột. “Chồng già vợ trẻ là tiên.”
            
Bà lão lại cười. Chàng thầm hỏi không biết mình đã già thật chưa. Ở cái tuổi của chàng, những bạn bè cùng lớp ở quê nhà đã thênh thang với nhà cao cửa rộng và những trương mục nặng ký trong ngân hàng. Không tìm được câu trả lời, chàng cũng cười vu vơ. Chàng nhìn bà cụ. Chàng yêu cái cười móm xọm trên khuôn mặt đầy những nếp nhăn ấy quá đi thôi
.
            
Mới sáng thứ bẩy vừa rồi chàng còn xoa dầu lên cái cổ tay sưng của bà cụ, còn cười giỡn bâng quơ, lan man bao nhiêu là chuyện không đầu đuôi. Hôm nay bà đã nằm đó, lặng thinh, câm nín. Chàng nhớ nụ cười của bà cụ. Chàng thèm được thấy thêm một lần, cái cằm nhọn đưa ra phía trước, vòng môi khô túm lại với nhau, tua tủa những nếp nhăn và đôi con mắt híp lại để tiếng cười khúc khích thoát ra từ cái miệng lưa thưa vài chiếc răng mòn vẹt tới sát nướu.

Ơi nụ cười hiền, của tiên, của Phật!

May I help you?

Câu nói làm chàng giật bắn người. Chàng quay vội lại. Người đàn ông to lớn mặc đồ vét mầu đen đứng sau lưng chàng từ lúc nào. Chàng không biết có phải tại nền nhà lót thảm nên chàng không nghe được tiếng chân bước lại phía mình hay tại chàng chìm đắm quá sâu vào vùng ký ức xa xăm với người quá cố.

Chàng lúng túng, “Tôi tới viếng bà cụ...”

“Ô.” Người đàn ông cao lớn nhìn chàng đăm đăm, “Ông phải là thân nhân không?”

“Người quen thôi.”

“Vậy sao?” Người đàn ông tỏ vẻ ngạc nhiên. Hai mắt gã quét từ đầu đến chân chàng một tia nhìn có chút gì như nghi hoặc.

Chàng lúng túng xoay lại nhìn chiếc quan tài gỗ sơn bên ngoài một lớp màu vàng nhạt như thứ verni rẻ tiền bên nhà.

“Tôi muốn nhờ ông một chuyện.” Chàng chần chừ một lát. Người đàn ông nhìn chàng bằng cặp mắt mầu xanh biếc. Bây giờ, chàng mới nhận ra gã có mái tóc vàng óng. Màu mắt và màu tóc gã không hòa hợp chút nào với chất mầu tối ám của bộ đồ gã mặc, và đôi giầy bóng loáng mà gã mang dưới chân. Gã không có vẻ gì của một nhân viên nhà quàn hết.

“Ông nói gì?

“Tôi có thể nhìn mặt bà cụ lần cuối không?” Chàng buột miệng nói. Rồi sực nhớ ra rằng mình rất ngại phải thấy nét tiều tụy trên mặt người quá cố. Trong một giây, nỗi bối rối giằng co trong lòng chàng.

Người đàn ông tóc vàng cúi đầu, nhìn vào mắt chàng, “Tại sao?”

Chàng nói liều, “Cũng như chào vĩnh biệt vậy mà!”

“Ông không phải thân nhân mà!”

“Nhưng tôi là người thân duy nhất của bà cụ ở đây.”

“Hèn chi!”

“Hèn chi... cái gì?”

“Chỉ có mình ông đến thăm bà già này. Mấy đám tang trước kia đông nghẹt người lại phúng điếu. Cũng người Việt đấy...”
Cái đầu của gã đàn ông lắc nhẹ trên chiếc cổ dài ngoằng không tỏ bày ra được một cách minh bạch những điều gã có trong óc. Nhưng gã vẫn lẩm bẩm,

“Mấy đám kia bao nhiêu là vòng hoa chia buồn, bao nhiêu là người đi đưa đám, đủ các loại xe sang trọng, đắt tiền. Bà già này chắc nghèo, phải không?”
Chàng không biết là mình vừa mới gật đầu hay lắc đầu. Lúc này chàng không muốn bận tâm đến chuyện se sua của những người đồng hương ngay trong những đám tang, chàng chỉ muốn nhìn mặt người đàn bà già nua, nghèo nàn, bệnh tật, sống một mình ở thành phố lạ, và chết một mình cũng trong cái thành phố chưa quen biết ấy.

“Được không, ông?”

“Cũng được!”

Người đàn ông dẫn chàng vào sát bên áo quan. Trong suốt những năm tháng hành nghề ở quê nhà cũng như bên trại tị nạn, chàng đã quá quen thuộc với bệnh nhân hấp hối, đã quá rành cái mùi thuốc ướp xác chết trong nhà xác, vậy mà hôm nay chàng hồi hộp đến tê dại cả hai chân. Chàng cố nhích từng bước nặng nề theo gã nhân viên nhà tang.

Thì ra quan tài chưa đóng hẳn. Nhân viên nhà quàn mở nắp áo quan lên một bên. Khuôn mặt người già hiện ra xám xịt, héo quay héo quắt dưới ánh sáng lờ mờ của căn phòng thênh thang. Chàng không thấy được nụ cười quen thuộc hôm nào.

“Để tôi mở điện lên. Không có ai đến viếng thành ra...” Người đàn ông bỏ lửng câu nói và bước ra góc phòng, bật công tác điện. Chàng không biết tại nhà quàn tiết kiệm điện hay vì bà cụ không có tiền trang trải nên không được hưởng chút ánh sáng trong những giây phút cuối cùng của kiếp người trên mặt đất. Ý nghĩ chàng bị cắt ngang khi ánh đèn lóe lên, soi rõ khuôn mặt gầy gò đầy những nếp nhăn xám xanh trên làn da trắng bệch như sáp. Lòng chàng rưng rưng một nỗi niềm.

“Này ông tiêm hộ tôi một mũi thuốc đi nhá.”

“Thuốc gì vậy cụ?”

“Thuốc đau rức ấy mà. Mấy cái khớp xương mùa này chúng nó cứ thi nhau mà làm khổ tôi.”

“Phong thấp đấy cụ ạ.”

“Buổi sáng ngủ dậy chân tay cứ cứng đờ cả ra như gỗ ấy thôi.”

“Cháu không có bằng hành nghề làm sao dám chích thuốc cho cụ bây giờ!”

“Lại cái bằng chết tiệt ấy!”

“Thôi để lúc nào rảnh rỗi cháu lại bóp chân cho cụ.”

“Nhưng ông còn phải đi làm nữa mà.”

“Cháu thất nghiệp rồi cụ ạ. Để mỗi sáng cháu lại đây đấm lưng cho cụ.”

“Ông tốt quá, mai kia trời trả công cho...”

Giọng nói bà lão dịu xuống, ươn ướt nỗi xúc động.

Rồi bỗng dưng cụ trầm ngâm, như chìm xuống vùng ký ức nào đó xa xăm, “Vẫn cái bằng chết tiệt ấy. Rõ khổ!”

Chàng nghe được tiếng lẩm bẩm của bà cụ trong gian phòng rộng thênh thang của nhà tang. Vẫn cái bằng chết tiệt ấy. Rõ khổ! Chiếc quan tài gỗ sơn màu vàng nhạt, lớp sơn mỏng đến độ chàng còn thấy được những đường vân vằn vèo của thớ gỗ. Mới hôm nào đây thôi chứ đã lâu lắc gì đâu. Chợt chàng thấy cay cay ở sống mũi và ngưa ngứa ở cổ họng. Chàng che miệng ho khan. Và bây giờ chàng mới để ý đến cái mùi ẩm mốc xa xăm của nhà quàn. Lâu lắm rồi chàng không có dịp ghé vào nhà tang. Vài năm trước, có một lần đi viếng một ông già quá cố, ba của một người bạn tây làm chung hãng, chàng có dịp chứng kiến, quan sát cách biểu lộ tình cảm của người tây phương. Hồi đó chàng đã dè bỉu cái lạnh lùng đến độ dửng dưng của thân nhân người chết. Lúc người bạn Canada hỏi chàng về tang lễ bên nhà, chàng đã hãnh diện khoe rằng người nước chàng rất giàu tình cảm, người nước chàng rất kính trọng người già cả, thành ra đám tang; nhất là đám tang người lớn tuổi, bao giờ cũng nườm nượp người phúng điếu và tiễn đưa. Bây giờ chàng mới biết mình lầm.
            
Người nhân viên nhà tang bỏ mặc chàng bên quan tài với nỗi xúc động quắt quay. Gã biến đi sau cánh cửa khép hờ ở cuối phòng.
            
Bà cụ mặc trên người bộ quần áo mới tinh, còn hằn rõ những nếp gấp. Chưa bao giờ chàng thấy cụ mặc bộ quần áo này. Chắc cụ để dành cho một chuyến đi xa nào đó trong ước mơ.
            
“Bao giờ mới hết mùa đông hở bác sĩ?”
            
“Sắp hết rồi cụ ơi.”
            
“Lần nào hỏi ông cũng bảo sắp hết rồi, mà tôi nhìn ra ngoài thì cứ vẫn tuyết trắng chói cả mắt ấy thôi.”
            
“Thì sớm muộn gì rồi cũng phải hết tuyết.”
            
“Mùa đông gì mà dài gớm ghiếc. Cứ được như bên mình mà lại hay, cứ nắng chán rồi lại mưa. Nắng lên mưa xuống, mưa thuận gió hòa có phải hơn không nào.”
            
“Cụ còn nhức lưng không?”
            
“Còn. Uống đến mấy viên thuốc mới hết rức đấy bác sĩ ạ.”
            
“Cụ đừng uống thuốc nhiều quá không tốt đâu.”
           
 Bà cụ nghiêng đầu như cố bắt cho kịp điều chàng vừa nói. Chàng tiếp, “Thuốc đau nhức uống nhiều hại bao tử chết.”
            
“Bác sĩ nói sao cơ?”
            
“Cụ đừng uống nhiều thuốc quá.”
            
“Tại cái mùa đông chết tiệt ấy mà! Biết vậy chả đi làm gì.”
            
Câu thở than của bà cụ đánh trúng ngay nỗi thắc mắc của chàng. Chàng ngần ngừ, “Ừ mà cụ vượt biên làm gì nhỉ?”
           
 Bà cụ nhướng cặp mắt kéo mây lên nhìn chàng như cố đoán xem chàng nói gì, rồi bất chợt bà trầm ngâm như thể ai đó mới chạm phải một vết thương đang kéo da non trong đáy sâu tâm tư.
            
“Hả cụ?”
            
“Thì có ba bà cháu. Chúng nó đi tôi ở lại với ai?”
            
“Thế cháu cụ đâu cả rồi?”
           
 “Hai đứa đều là con gái.”
            
“...”
           
“Một đứa bị hụt chuyến ghe, vướng lại. Đứa kia...”
            
“Đứa kia... à cô kia thì sao?”
            
“Cướp biển...”
            
“Ô!”
            
“Con bé em vướng lại bên ấy thế mà lại hay. Năm nay nó hai mươi ba tuổi rồi. Muốn làm mối cho ông mà ông cứ lờ đi thôi.”
            
Chàng bối rối, ngượng ngùng, “Tại cháu chả có công ăn việc làm gì ra hồn, thành ra không dám.”
            
“Chứ không phải là ông chê nó ở Việt Nam, quê mùa?”
            
“Không dám đâu ngoại ơi.”
            
Chàng nhìn đăm đăm con mắt nhắm hờ của người quá cố. Không biết ai đã vuốt mắt cho bà cụ mà đôi mắt kéo mây ấy vẫn không chịu nhắm lại, như thể vẫn còn điều gì vướng mắc với trần gian. Chàng nhớ là từ hôm ấy chàng đổi cách xưng hô. Chàng gọi bà lão là ngoại, và tưởng chừng như chàng được thêm một lần làm trẻ con, ngây thơ, bé bỏng bên bà ngoại của mình ngày xưa.
           
 Nhưng bà cụ thì cứ nhất định gọi chàng là bác sĩ.
            
“Ngoại ơi, ngoại đừng cữ ăn như vậy, hại người lắm đó.”
            
“Bác sĩ nói gì cơ?”
           
 “Ngoại nhớ ăn uống đầy đủ.”

“Sợ cái thứ cô lét cô liếc gì đó ông bác sĩ à.”
           
 “Cholesterol phải không?”
            
“Ừ, mấy cái bà quen lại chơi cứ bảo đừng ăn, sợ nó dính vào tim rồi chết sớm.”
            
Chàng cười, cố gắng giải thích cho bà cụ hiểu về chất mỡ trong máu và những tai biến của bệnh tim gây ra do lượng mỡ quá cao trong máu.
            
“Này, bác sĩ ơi. Sao ông không mở phòng mạch?”
            
“Người ta không cho đâu ngoại à.”
            
“Ông còn thiếu cái gì nữa mà họ không cho chứ?”
            
“Thiếu bằng hành nghề. Như thợ uốn tóc thì có bằng hành nghề uốn tóc, thợ sửa xe thì có bằng thợ máy sửa xe, thợ sửa ống nước thì có bằng hành nghề sửa ống nước. Cháu cần cái bằng hành nghề cụ ạ.”
            
“Ông có tấm lòng nhân ái, ông lại mát tay như ông bác sĩ Kính ở đầu ngõ nhà tôi bên Phú Nhuận, vậy thì ông còn thiếu cái gì nữa mà không cho mở phòng mạch chứ?”
            
“Mảnh giấy ngoại à, cháu thiếu mỗi một mảnh giấy thôi. Mảnh giấy có mấy chữ bằng hành nghề ấy mà.”
            
“Được rồi, để tôi tính xem sao. Tôi tức lắm. Ai đời người có tài thì ém.”
            
“Người ta không ém đâu ngoại à. Tại xứ người ta có quá đủ bác sĩ rồi.”
            
“Nhưng mà có được mấy người như ông đâu.”

Chàng nhìn hai bàn tay gầy guộc đan vào nhau trên khuôn ngực lép kẹp của bà lão. Bàn tay xương xẩu ba bốn chục năm về trước đã nâng niu bú mớm con thơ; bàn tay cầm tay con tay cháu, nắn nót tập viết những chữ vỡ lòng thuở nào.

Chàng còn nhớ rõ lắm. Khoảng nửa tháng trước, bà cụ nhờ chàng mua dùm mấy cái bao thư và xấp giấy (chắc là để viết thư về Việt Nam cho đứa cháu gái.) Chàng mua mà lòng lo lắng bâng khuâng. Chàng sợ chuyện mối mai. Bây giờ người ta lấy nhau một cách cầu may. Chả cần yêu thương gì hết ráo. Cô gái thích có chồng ở nưóc ngoài. Người thanh niên cần vợ cho bớt lạnh lẽo nơi xứ người. Một hai câu mối mai, giới thiệu, đưa hình cho xem, tả cảnh tả tình đại khái. Vé máy bay khứ hồi. Vậy là cưới nhau. Dễ dàng, thoải mái. Chàng ngán chuyện đó quá thôi.
Chàng xưa như trái đất. Thời buổi này mà chàng còn cứ nghĩ là lấy nhau mà không có tình yêu thì làm sao mà sống!
            
Lúc đưa bao thư và tập giấy cùng cây bút cho bà cụ, chàng muốn hỏi cụ tính viết gì cháu viết hộ cho, nhưng lại thôi. Chàng cố hình dung vóc dáng người con gái Việt Nam mảnh mai, dịu hiền ở quê nhà. Và bỗng dưng lòng chàng thấp thoáng niềm vui.
            
Bây giờ bà cụ nằm đây. Không còn cằn nhằn về cái mùa đông dài dằng dặc ở xứ người, không còn nhăn nhó về cơn đau nhức ê ẩm châu thân. Và chẳng còn ai làm mai cho chàng người con gái hai mươi ba tuổi ở quê nhà.
           
 “Tuần tới cháu phải đi xa ngoại ạ.”
            
“Ông đi đâu cơ?”
           
 “Cháu đi Vancouver.”
            
“Xa lắm phải không?”
            
“Cũng gần thôi.”
           
 “Rồi bao giờ thì về?”
           
 “Một tuần.”
            
“Chắc nhá.”
            
“Chắc mà ngoại. Cháu đi xem tình hình công ăn việc làm.”
           
 Đôi mắt bà cụ chớp nhanh, “Đừng bỏ tôi đấy. Tôi yếu lắm rồi cơ!”
            
Chàng không bao giờ ngờ, lúc về tới, chàng chỉ kịp lại thăm bà cụ lần cuối trong nhà quàn.
            
Người nhân viên trở lại, lịch sự xin phép chàng đóng áo quan lại. Chàng nhìn thêm một lần nữa đôi con mắt nhắm hờ của người quá cố. Chàng nhìn chăm chú xem cổ tay cụ có còn sưng như bữa trước không. Nhưng tay áo dài lòng thòng che đi mất một nửa bàn tay.

Bà ngoại (hay bà nội) vợ sắp cưới của chàng đó.

Mảnh gỗ đóng lại một khuôn mặt tha hương và khép lại một kiếp đời cô quạnh.

Khoảng nửa tiếng sau, cô nhân viên bên sở xã hội mới đến để làm giấy tờ thanh toán tiền bạc với nhà tang (hay để đưa tiễn người đàn bà xa xứ?). Người công chức mặc áo vét và váy đầm mầu đen bắt tay chàng và đặt ngay cho chàng một câu hỏi, “Ông là người nhà?”

Mùi nước hoa vây quanh cô gái làm chàng ngây ngất, thành ra chàng phải suy nghĩ mất vài giây rồi mới gật đầu. Chàng nghĩ đến cô cháu gái bà cụ. Nếu mai này chuyện có thành thì chàng sẽ là cháu rể của cụ, chàng sẽ chính thức là người nhà.

“Tuần trước lúc tôi tới thăm, bà cụ có đưa cho tôi cái này.”

Người đàn bà vừa nói vừa mở dây kéo chiếc túi xách, lôi ra một xấp giấy tờ. Chàng thấy lòng mình nôn nóng, nhưng chàng cố thản nhiên; chàng cố không nghĩ đến những của nổi của chìm của người quá cố. Chàng cố không nghĩ đến một tài sản bất ngờ dành cho những điều tốt lành chàng đã làm vô điều kiện bấy lâu nay.

Cô nhân viên xã hội lật xấp giấy, chăm chú tìm. Một lát, cô ta lôi ra được bao thư, đưa cho chàng. Chàng nhận ra loại bao thư chàng đã mua cho bà cụ trước khi đi Vancouver. Hẳn cụ đã đoán trước được những ngày cuối đời sắp tới nên viết thư về quê nhà cho cô cháu gái.

“Phải tên ông đây không?”

Người công chức chỉ vào cái tên người nhận viết ở bao thư. Dòng chữ quều quào run rẩy như những con giun đất, nhưng chàng vẫn nhận ra tên mình bên cạnh con số điện thoại nhà chàng. Chàng gật đầu vội vã. Bà cụ còn cẩn thận viết chữ Doctor trước tên chàng nữa. Chàng đón vội lấy bao thư, lật mặt sau lên coi. Chàng không muốn cô ta hỏi bộ chàng là bác sĩ thật sao.

Nhưng cô ta không hỏi gì.

Một lát, cô gợi chuyện, “Chắc bà cụ chỉ có mình ông là người thân?”

Chàng lúng túng gật đầu. Chàng nghĩ đến cô cháu gái hai mươi ba tuổi của bà cụ còn ở Việt Nam. Dạo này chàng thấy mình nghĩ hơi nhiều đến người con gái chưa bao giờ gặp mặt ấy.

           
“Tội nghiệp bà cụ. Rồi cũng xong!” Cô gái lẩm bẩm một mình. Chàng thử liếc vào cặp mắt xanh biếc trên khuôn mặt hồng hào của cô xem có bao nhiêu phần cảm xúc chân thực và bao nhiêu phần do nhu cầu nghề nghiệp mà có. Nhưng chàng không thể nào đoán ra.
            
“Bây giờ chúng tôi sẽ chuyển người chết đi.” Người nhân viên nhà quàn nói sau khi xếp xấp giấy tờ vào cái kẹp hồ sơ.
            
Chàng ngập ngừng, “Tôi theo được không?”
            
“Không được đâu.”
           
 “Tôi muốn,” Giọng chàng bỗng trở nên bâng khuâng. Chàng loay hoay tìm chữ, “Tôi muốn ném xuống mộ bà cụ... một nắm đất.”
            
“Không được, vì chúng tôi sẽ hỏa táng bà cụ...” Người đàn ông ậm ừ một lúc rồi nói tiếp, vội vàng như lỡ lời, “Cho đỡ tốn tiền.”
            
Chàng xoay người trở lại, lừng khừng đến sát bên áo quan, vỗ nhẹ vào miếng ván thiên màu vàng nhạt. Hơi gỗ lạnh lẽo ám lên da tay chàng. Chàng thì thầm, “Ngoại yên nghỉ nghe ngoại!”
            
Trở về nhà uể oải trong cái lạnh gai gai da thịt, chàng mặc nguyên chiếc áo choàng mùa thu, kéo ghế ngồi trang trọng trước bàn làm việc của chàng và tẩn mẩn mở cái bao thư có kỷ vật của bà cụ. Chàng cố đừng nghĩ tới những con số tròn trịa trên tấm chi phiếu dễ thương; chàng cố đừng hình dung đến những trương mục ngân hàng đầy quyến rũ. Và chàng từ từ lôi tờ giấy trắng ra khỏi cái bao thư mầu xanh lợt.
            
Chàng nhìn đăm đăm những chữ viết trên tấm giấy chữ nhật. Lòng chàng thắt lại cái cảm xúc không thể đặt tên.

Bằng hành nghề Bác sĩ Y khoa.

Cấp cho Bác sĩ Châu, đã tốt nghiệp Y khoa ở Việt Nam, đã đậu bằng tương đương ở Canada. BS Châu có tấm lòng, có khối óc, có bàn tay của người thầy thuốc lý tưởng. Nếu không có bác sĩ Châu, tôi đã chết lâu rồi.

Bằng hành nghề này có giá trị trên toàn thế giới.

Chữ ký của bà cụ run rẩy như con giun phía dưới.

Chàng nghe mình thở dài. Di chúc của bà cụ đó. Những ngón tay chàng ngậm ngùi mân mê trang giấy. Tiếng loạt xoạt nhắn nhủ chàng rằng thôi thì cũng cố tôn trọng ước muốn sau cùng của người đã khuất. 

Đầu óc chàng bồng bềnh như mây, như gió. Chàng thấy bàn tay mình xé trang giấy trắng trong cuốn tập, trải ra trên mặt bàn. Chàng thấy tay phải mình cầm cây bút lên, hí hoáy. Chàng thấy mình nguyệch ngoạc những chữ viết ngoằn ngoèo trên trang giấy.

A, thì ra chàng sắp viết thư cho bố mẹ. Có cái gì đó thúc giục chàng phải viết một điều gì, cho nguôi cơn bão tố trong lòng. Thư cho bố mẹ. Lâu lắm không viết thư cho bố mẹ. Tại chả có chuyện gì mới lạ. Hôm nay thì có tin vui, có thể viết thư về nhà được rồi. Không như những lần trước nói quanh quất vài ba lời thăm hỏi rồi kể lể qua loa rằng bên này vẫn thường, con đang làm trong hãng cũ. Rằng con đang sợ mất việc làm...
Niềm vui xông hương ngào ngạt trong lòng, khiến chàng không thể đợi cho xong những câu theo thủ tục viết thư thông thường. Chàng đặt bút viết ngay đầu trang giấy, Ba má ơi, con có bằng hành nghề rồi.
            
Rồi chàng sựng lại đó, ngây người ra hình dung vóc dáng cô gái nhỏ mà bà cụ làm mai cho chàng. Chàng tiếc là đã không hỏi xem cô là cháu ngoại hay cháu nội của bà cụ để báo tin cho bố mẹ chàng hay. Chàng thấy bàn tay mình viết ra những chữ không phát ra từ đầu óc chàng: Và con cũng mới có một cô bạn gái, ở Việt Nam...
           
08 tháng 09, 1997
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.