Hôm nay,  

Thị Trường Và Dân Chủ

7/1/200600:00:00(View: 3355)

Với mọi thành tích kinh tế, Trung Quốc đang chứng minh dân chủ là cần thiết…

Kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hôm 30 vừa qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã đọc một bài diễn văn kêu gọi diệt trừ tham nhũng. Nghe cứ hùng hồn như Hà Nội! Hơn cả Hà Nội, trước đó một ngày, ba đảng viên cao cấp đã mất ghế đại biểu Quốc hội, trong đó có một Phó Đô Đốc, vì tội tham nhũng. Đã hùng hồn lại còn cương quyết nữa.

Từ Tháng Ba vừa qua, lãnh đạo Bắc Kinh ban hành Kế hoạch Năm năm 2006-2010 với những chương trình cải cách cơ chế được Hội nghị Trung ương đảng đề ra từ Tháng 10 năm ngoái. Một trọng tâm cải cách chính là cơ chế đảng, lồng bên dưới là nỗ lực diệt trừ tham nhũng đang làm đảng mất uy tín và gây làn sóng bất mãn trong quần chúng.

Cho nên, phải tin rằng Hồ Cẩm Đào đã nói là làm… không như người Hà Nội.

Từ bên ngoài, thế giới ưa có cái nhìn trên tổng thể - và nông cạn - về quốc gia có một tỷ ba trăm triệu dân và đà tăng trưởng kinh tế tới 9-10% một năm.

Lý luận theo đường thẳng thì cứ đà này thì chỉ hai kế hoạch năm năm nữa là kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Nhật Bản, đến năm 2030 sẽ hơn toàn khối Âu châu. Nếu lại đạt tốc độ tăng trưởng chừng 12% trong khi các nước công nghiệp hoá giỏi lắm thì chỉ cầm cự được với tốc độ 5% thì 30 năm nữa, kinh tế Trung Quốc còn lớn hơn tổng số sản xuất Mỹ-Nhật. Đứng đầu thế giới!

Trước một thế lực như vậy cho một thị trường có triển vọng như thế, các doanh nghiệp đầu tư của quốc tế đều sẵn lòng bỏ qua những chứng tật lặt vặt của chế độ. Microsoft, Google hay Yahoo!, v.v… đều lý luận như thế cả.

Thành tích ấy khiến nhiều người phân vân tự hỏi: một chế độ độc đảng theo kinh tế thị trường có thể tạo ra phép lạ kinh tế" Người ta phân vân như đã từng phân vân như vậy nửa thế kỷ trước về phép lạ công nghiệp hoá của Liên Xô. Dường như chế độ độc tài có khả năng sung dụng tài nguyên dù độc đoán thì cũng hiệu quả hơn sự mù quáng của thị trường.

Ai đó phân vân chứ giới lãnh đạo Hà Nội tin chắc như vậy.

Cũng chỉ vì một cái nhìn nông cạn.

Từ hai năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh đã nhiều lần báo động là kinh tế tăng trưởng quá mạnh nên phải có biện pháp hạ nhiệt. Ngần ấy biện pháp đều chẳng công hiệu cho nên năm ngoái, đầu tư cố định cho sản xuất đã lên tới 45% tổng sản lượng nội địa GDP, và năm nay sẽ còn mấp mé 50%. Xưa kia, khi Nhật Bản rồi Đại Hàn hay Đài Loan thắt lưng buộc bụng để dồn sức cho sản xuất thì cũng chưa hề đạt nổi mức đầu tư cố định là 40% GDP, vậy mà cũng thành rồng cọp.

Giờ đây, Trung Quốc đầu tư còn lớn hơn thế thì chuyện qua mặt Nhật Bản là tất yếu!

Thực ra, với trình độ kỹ thuật hiện nay thì mức đầu tư ấy phải dẫn tới kết quả tăng trưởng cao hơn 10%, phải từ 12 đến 15%. Thực tế, một số địa phương như thành phố Thiên Tân đã có mức tăng trưởng lên tới 20%. Nhưng để làm gì"

Trong 27 năm qua, cùng với đà tăng trưởng kinh tế rất cao khiến người ta nhớ tới phép lạ Đông Á, thì dị biệt giàu nghèo đã đào sâu gấp bội, ngược hẳn với các nước Đông Á như Nhật Bản, Đại Hàn hay Đài Loan. Mà các xứ này lại không đề cao lý tưởng xã hội chủ nghĩa và phải chấp nhận quy luật dân chủ để có một chế độ chính trị ngày càng cởi mở hơn theo đà tăng trưởng. Nghĩa là họ tăng trưởng có phẩm chất, xã hội có phát triển.

Ngày nay, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng cao, nhưng thiếu phẩm chất và gây rất nhiều phí tổn ngầm, loại "ẩn phí" không ai kiểm tra nổi, như nạn ô nhiễm môi sinh hay thái độ vô trách nhiệm về xã hội. Vì vậy, kết quả tăng trưởng ấy đã không được phân bố đồng đều mà cũng sẽ không bền. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và những người cùng ông lên cầm quyền từ năm 2002 đã bắt đầu hiểu ra điều ấy và đang cố gắng cải sửa, thành thật cải sửa, khác hẳn Hà Nội.

Khi ta thấy kết quả tổng hợp là tăng trưởng 10% một năm mà Thiên Tân lại vượt bậc với 20% thì mình phải suy ra là nhiều tỉnh chỉ có mức tăng trưởng 5%, những tỉnh nằm sâu trong lục địa và chưa ra khỏi thế kỷ 19.

Thiên Tân sở dĩ đáng chú ý vì Chủ tịch Ủy ban Nhân dân là Đới Tương Long, đã có một thời làm Thống đốc Ngân hàng Trung ương.

Khi làm Thống đốc, ông nhìn tình hình kinh tế ở tầm vóc quốc gia, nay về lãnh đạo một tỉnh, ông thấy chính quyền trung ương là một… chướng ngại. Khi làm Thống đốc, ông ta muốn mọi địa phương hay doanh nghiệp phải chấp hành chánh sách tiền tệ và tín dụng của trung ương, ngày nay, ông thấy chủ trương mới của chính quyền trung ương gây thiệt hại cho Thiên Tân.

Lãnh đạo Bắc Kinh - những Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo hay Uý Kiện Hành - đều hiểu ra là đường lối phát triển kinh tế do Đặng Tiểu Bình đề xướng và Giang Trạch Dân áp dụng đã đi hết sự vận hành của nó và ngoài lượng thì còn phải chú trọng đến phẩm. Họ chủ động yêu cầu giảm đà tăng trưởng, cải cách cơ chế - từ luật lệ (về đất đai) đến thuế khoá và giáo dục y tế - để nâng đỡ nông thôn và các tỉnh khiếm khai trong lục địa. Nếu không cấp bách tiến hành việc ấy thì xã hội Trung Quốc có thể vỡ đôi, nông dân sẽ nổi loạn.

Đồng thời, họ cũng hiểu là nếu tiếp tục đường lối cũ là dồn tiền từ ngân hàng vào các doanh nghiệp nhà nước để sản xuất tối đa với giá thành tối thiểu hầu bán thật rẻ ra ngoài thì các ngân hàng sẽ sụp đổ dưới núi nợ thối không thể đòi lại từ các doanh nghiệp. Trước khi gặp nguy cơ động loạn xã hội, Trung Quốc có thể lãnh nguy cơ khủng hoảng tài chánh. Hoặc nói theo trình tự hợp lý, khủng hoảng tài chánh sẽ xoá sạch tiền ký thác của dân chúng và dẫn tới động loạn, cả trương chủ ở thành phố tới nông dân ở thôn quê sẽ cùng biểu tình với công nhân bị sa thải từ các doanh nghiệp nhà nước bị phá sản.

Đây là viễn ảnh đang chờ đợi họ sau những hồ hởi tưng bừng của Thế vận hội Bắc Kinh 2008, như một đỉnh cao báo trước sự sụp đổ của hệ thống chính trị hiện hành.

Vì vậy, họ mới vận động cải cách và… đụng vào cái vảy ngược của con rồng, của một bầy rồng.

Việc cải cách ấy xâm phạm vào quyền lợi của các địa phương, của các đảng ủy và cán bộ đã trục lợi và làm giàu nhờ đường lối kinh tế cũ. Chẳng những các tỉnh ngoài duyên hải không ưa gì chủ trương cải cách mà các tỉnh nằm sâu trong lục địa cũng vậy vì đảng viên nơi ấy vẫn có những đặc quyền và đặc lợi vượt khỏi tầm tay người dân. Và nhiều đảng viên địa phương bắt đầu bất mãn với việc cải cách của Hồ Cẩm Đào nên lặng lẽ phá hoại, nhẹ nhất thì cũng ù lỳ không chấp hành những biện pháp giảm đà tăng trưởng.

Từ bên ngoài, vì bị mê hoặc ở tốc độ tăng trưởng cao và viễn ảnh bán cho mỗi người dân Hoa lục một sản phẩm của mình, thế giới không nhìn ra là chính quyền trung ương hiện không kiểm soát được nền kinh tế, mỗi nơi lại tăng trưởng một cách theo những tính toán lợi hại của từng địa phương.

Đâm ra nếu không cải cách thì xã hội vỡ đôi mà tiến hành cải cách thì có khi đảng sẽ vỡ đôi.

Cho đến nay, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bắt đầu áp dụng bài bản của Mao Trạch Đông trong cuộc Đại Văn Cách: vận động thế lực của quần chúng, kể cả sự bất mãn của nông dân, làm đòn bẩy tấn công ngược vào các đảng viên tham ô. Cũng trong chiều hướng ấy, họ còn tung ra lập luận là kinh tế thị trường và giới đầu tư nước ngoài đã hủ hoá đảng viên cán bộ. Đây cũng một hình thức mị dân, khơi động tinh thần độc lập, hay bài ngoại, của người dân, nhằm gây sức ép vào trong đảng, để cứu đảng.

Những chuyện ấy đáng để cho thế giới nhìn lại Trung Quốc với con mắt thực tế hơn.

Chế độ chính trị, cái "định hướng xã hội chủ nghĩa" nói theo Hà Nội, đã gây vấn đề cho việc sung dụng tài nguyên và phân phối lợi ích kinh tế. Tài nguyên được trút vào những dự án ít giá trị kinh tế nhưng có lợi cho đảng viên kiêm doanh gia, và thành quả kinh tế được phân phối trước tiên cho tập đoàn lãnh đạo ở các địa phương. Phép vua của Bộ Chính trị vẫn thua lệ làng của các Trung ương Ủy viên ở cấp địa phương.

Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa thể mường tượng ra một thể chế liên bang cho một xứ sở rộng lớn, có nhiều dị biệt và mâu thuẫn như vậy. Họ cũng không muốn nghĩ đến một giải pháp chính trị thích hợp cho hình thái kinh tế thị trường. Họ muốn có một chế độ phi cầm phi thú để chiếm lợi thế của kinh tế tự do lẫn chính trị độc tài, và họ gặt hái kết quả tệ hại nhất trong cả hai lãnh vực: kinh tế tự do thiếu luật lệ công minh và chính trị độc tài thiếu giải pháp cứu vãn.

Tại Việt Nam, mỗi khi cần tranh luận về việc kinh tế thị trường có cần tới chính trị dân chủ hay không, người ta thường viện dẫn mẫu mực Trung Quốc để biện minh cho sự chuyên quyền của giới lãnh đạo. Lý luận ấy sắp trở thành lỗi thời.

Nhưng dù sao thì đấy cũng chỉ là một vấn đề lý luận. Trong thực tế thì khi Trung Quốc bị khủng hoảng, Việt Nam sẽ bị họa lây. Chuyện ấy mới là điều đáng quan tâm hơn!

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Theo thói quen đa số người Việt gốc miền Nam Việt Nam đều chỉ trích Hoa Kỳ, đặc biệt là Đảng Dân Chủ, đã bỏ rơi VNCH. Tin tưởng này được tăng cường bởi những lập luận thiếu căn bản dựa trên những tài liệu thiếu cập nhật của những cố vấn cũ của ông Nguyễn Văn Thiệu. Ít người có can đảm và tính chất vô tư để nhìn vào sự thật...
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.