Hôm nay,  

Học Cái Xấu

24/11/202300:00:00(Xem: 3769)
huynh le nhat tan-Đêm Thắp Cõi
“Đêm Thắp Cõi”, tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn. Huỳnh Lê Nhật Tấn sinh năm 1973, hiện đang làm việc tại Đà Nẵng. Sau hai tập thơ tự do Men da (2009) và Que than (2017), anh xuất bản tập sách mỹ thuật Vết căn nguyên (tháng 3.2022), là chủ đề của cuộc triển lãm tranh sô-lô Vết căn nguyên cùng năm.
 
Người học nhiều mà không áp dụng được, thường cho rằng học vô ích hoặc tổn phí thời giờ, để làm việc khác thích thú hơn. Người học nhiều và áp dụng đạt được hữu ích, thường trở thành kẻ quá tin tưởng vào kiến thức, một loại nô tì cho trí tuệ. Cái giá trị của học chỉ có một nửa nằm ở nơi ứng dụng vào đời sống làm cho bản thân phù hợp với xã hội mà không mất sự bình an trong tâm trí.

Một nửa còn lại để làm gì?

Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an.

Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…” Ông đã học được một điều lớn nhất trong đời: Bình an không ở đâu xa, nhưng không thấy thì không biết. Không học thì không hiểu. Câu truyện rất ngắn này đưa đến kết luận, sống trong một cuộc đời đầy nỗi niềm khó hiểu, quá nhiều những thứ phi lý, giả tạo, giả hình, mà vẫn được ca ngợi; sống trong một thời đại mà “nói dối” được  chấp nhận cao hơn “nói thật.” Người nói dối luôn miệng được xem là anh hùng … sống kinh ngạc kinh sợ như vậy, nếu không ra sức học, làm sao tìm thấy bình an thật sự trong trái tim?
Nhưng học cái gì? Và trước hết, học là gì?

Con Vịt Xám.

Thời buổi này mà nói chuyện học như đi đến trường, như nghe thầy giảng dạy, thì chán chết.

Thực tế, học trường học người như đi theo ánh đèn do có kẻ soi đường đi trước, mình theo sau. Rồi một hôm, đèn hết điện, hoặc kẻ soi đường vấp té, hoặc kẻ ấy biến mất vì nhiều lý do bí ẩn, người đi theo, cả đám theo sau, bơ vơ, thất lạc, trở về trong bóng tối. Sợ hãi gấp đôi, thất vọng gấp ba, cuồng loạn gấp bốn vì đã quen ánh sáng của kẻ dẫn đường.

Học, hay nhất, thâm nhất, là học mình. Học bản thân là tự thắp đèn mà đi. Bản thân còn, đèn sáng. Bản thân mất, đèn tắt. Đã mất rồi, cần gì đèn? Không có gì quí hơn đèn của mình, mình tự dùng. Nếu cả gia đình, vợ chồng con cháu cùng thắp đèn đi chung, thì hay biết mấy! Mỗi đoạn đường được đi chung với nhau trong ánh sáng là một thứ cao cả, huyền diệu hơn kỷ niệm, mà “những khi chiều tà trăng lên, tiếng ca còn rền trên cõi tiên…”(*)

Học khởi sự bằng quan sát. Nhìn, nghe, ngửi, sờ cảm một cách chi tiết và thận trọng để ghi nhận. Từ đó, nhận thức bắt đầu đào sâu, mở rộng. Trong giai đoạn này, những ai có khả năng “siêu nhận thức” cao, sẽ tự nhiên cảm nhận bất ngờ, sâu xa, sáng suốt, gần giống như giác quan thứ sáu thấy trước, thấy xuyên qua. Đồng thời với sự cảm nhận là suy nghĩ và luận lý. Cứ lắng nghe tâm trí liên tục hỏi tại sao? Rồi nó tự trả lời. Rồi nó tự phản biện. Rồi nó tự kết luận. Rồi tự nó không vừa ý. Rồi tự nó hỏi lại. Vân vân. Quá trình này là “bắt đầu học”. Sau đó, muốn tìm hiểu thêm, phải so sánh cái biết, cái sở kiến, sở nghiệm của mình với kiến thức của người khác, của sách vở, của thiên nhiên, của cái kinh nghiệm tự nhiên. Khi so sánh sẽ mang theo nhiều câu hỏi và đối đáp. Những thắc mắc trở đi trở lại. Đôi khi, tưởng như đã biết, rồi gặp phải hoàn cảnh, mới rõ, mình chưa biết hết. Quá trình này là “học.” Học theo lề lối này sẽ không bao giờ hết, nhưng người học trò của bản thân mỗi ngày mỗi cao lớn, khỏe mạnh, sáng rạng, đẹp hơn.
Đọc sách để học là quan sát ngôn ngữ và ý tưởng của tác giả. Nhìn, nghe, ngửi, sờ, cảm, nhận thức, siêu nhận thức… không phải chỉ lật trang và vu vơ với những câu truyện kể hài hước hoặc chảy nước mắt. Chúng ta học được gì khi đọc, khi nghe những thói xấu của người Việt trong nước và người Việt hải ngoại? Chúng ta học hay đang cười chế giễu, khinh khi, bực bội, chán ghét? Học được gì nơi nước mắm? Rau muống? Củ mì? Giá sống? Phở, bún bò, gỏi cuốn, bánh mì, mì quảng, nem chua, bún chả Hà Nội, bánh bèo, cơm cháy? So sánh cái biết này với cái biết về những thói xấu người Tàu, thói xấu người Xì, thói xấu người Châu phi, thói xấu người Mỹ? Ông James Elkins, trong bài viết “What Painting Is”, nói rằng, xấu cũng có giá trị như đẹp. Ý của ông là tùy cách hiểu về cái xấu cái đẹp mà mỗi người sẽ cảm nhận giá trị của chất thẩm mỹ. Thẩm mỹ bao gồm cả đẹp lẫn xấu. Điều này đúng nhãn tiền, nếu không, những anh xấu trai làm sao lấy vợ?

Huỳnh Lê Nhật Tấn - Bóng Về
Bóng Về” - Tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn.


“Tôi là người xấu trai mà có vợ đẹp nên hiểu thấm thía cái xấu. Xấu không hẳn là ngược lại với đẹp, cũng không phải là mặt sau lưng. Xấu là con vịt xám làm cho đàn vịt lông trắng xấu hổ. Xám lẻ loi, mặc cảm, buồn bã, thất vọng, chán cả bản thân. Rồi một hôm, lạ lùng, nó rụng hết lông xám. Lạ lùng, mọc lên lông trắng. Lạ lùng, bay lên cao. Nó trở thành thiên nga. Bí quyết ở đây là rụng hết lông xám. Nếu không rụng hết lông xám để mọc lông trắng, thì con vịt xám kia mãi mãi là vịt xiêm. Muốn rụng hết lông xám, mọc lông trắng, tập cất cánh, rồi bay cao, cần phải học.

Tìm đến những mẫu chuyện kể lể, thêm bớt, mỉa mai, thói hư tật xấu của người Việt hoặc bất cứ người gì, chỉ để giải trí và phát tán trên mạng, chia vui, sao mà dư thời giờ quá. Không phải, việc này cười vui, không hãm hại gì, nhưng NHỚ kèm theo một chút rụng lông xám, mọc lông trắng, cho cái xấu có cơ hội trở mình. Bay cao.

Hiểu Cái Xấu.

Người ta thường quí trọng cái đẹp, ít ai quí trọng cái xấu. Tìm hiểu cái xấu giống như tìm hiểu bệnh tật để có thể chữa trị hoặc tái thiết kế nó cho bớt xấu hoặc đẹp hơn.

Một trong một số điều gây hãnh diện khi trưởng thành là mua được căn nhà. Cái cảm giác đầu tiên khi làm chủ một căn nhà dù vay, dù nợ, thật sự sung sướng, bay bổng, hả dạ làm sao nói cho cạn. Lần đầu tiên khi làm chủ một chiếc xe cũ, tôi đã chờ vợ ngủ say, để lén chui vào xe nằm băng sau, ngủ chập chờn, vì vừa chớm sáng, phải nhanh chóng leo vào giường như chưa hề đi đâu. Huống chi là làm chủ một căn nhà, dù nhỏ vẫn lớn hơn chiếc xe cả chục lần.

Nhà cũ, sau một thời gian, cũ thêm. Bắt đầu hư, phải sửa. Bấy giờ, mới biết. Nếu trước đây biết tìm kiếm, phát giác ra những chỗ sắp hư, mà điều chỉnh, mà cải thiện, thì bớt tốn tiền. Đôi khi, gọi thợ đến sửa, tiền mất tật mang, gây thêm nhiều bệnh khác. Nhà nào không cũ? Nhà nào không hư? Tâm nào không cũ? Trí nào không hư? Nhà nào không có chỗ xấu? Người nào hoàn toàn đẹp? Nếu biết sớm sửa chữa, thì đỡ bớt hao tốn tuổi.

Học không phải để giết cái xấu, không phải để cầm tù cái xấu, mà để cái xấu khởi sự bớt xấu, rồi từ từ, hết xấu, rồi đột nhiên đẹp.

Hiểu cái xấu, trước tiên, là hiểu nó luôn luôn hiện diện trong nội tâm và ngoài đời sống. Không ai có thể hủy diệt hết cái xấu, kể cả Thượng Đế. Vì nếu không có xấu, làm sao ai biết đẹp là gì.

Không thể tiêu diệt nó, có nghĩa, phải sống chung với nó. Nếu phải sống chung thì hòa bình tốt hơn chiến tranh. Sống chung rồi liệu cơm gắp mắm. Từ từ “đẹp hóa” chất xấu, chất dơ. Mợ tôi, một phụ nữ nhan sắc mặn mà, quí phái, hấp dẫn một quân nhân thời chiến và mợ trở thành bà đại úy. Ông đại úy, thời ly loạn, nghĩa là di chuyển, ăn nhậu, dân chơi vũ trường. Một hôm, một cô vũ nữ, nhan sắc mật ngọt, ngôn ngữ mật ong, trở thành bà đại úy nhỏ. Để tránh cảnh một nhà hai quê, bà lớn năn nỉ chồng mang bà nhỏ về ở chung. Chị em chia nhau nâng khăn sửa túi. Cùng vui mà đỡ tốn kém. Được lời như cởi tấm lòng. Ông đại úy đưa vợ nhỏ về quê. Trồng trầu thì phải khai mương, làm trai hai vợ phải thương cho đều. Ông đại úy bấy giờ tốn tiền gấp đôi. Khi mua phải mua hai cái giống nhau: hai áo dài, hai xách tay, hai đôi giày, hai hộp bịt, hai son môi, hai má hồng, hai vân vân, và tốn sức gấp đôi. Vậy đó, vui quá chừng. Vui gần hai năm, một hôm, bà nhỏ tự động bỏ đi, không ai biết lý do.

Giả thuyết, bà lớn to nhỏ, chị chị em em, khiến bà nhỏ cảm thấy xấu hổ trước lòng tốt của chị, nên tự mình giải quyết lấp mương, khỏi trồng trầu.
Giả thuyết, bà nhỏ cảm thấy chán nản, chán ngán chuyện phụ nữ liên đới nên đi tìm độc lập tự do.

Giả thuyết, bà nhỏ gặp một người tình khác. Chuyện này có nghi vấn, vì cho đến phút cuối cùng, bà nhỏ vẫn mặn nồng với phiên bản phim tập không có dấu hiệu chấm dứt.

Giả thuyết, bà nhỏ đã học được thiện tâm.

Tôi chứng kiến chuyện tình bài ba lá nhưng không biết trái tim nằm ở lá bài nào. Nhưng tôi tin rằng, thiện tâm thường phát xuất từ một thiện tâm khác. Sự tốt đẹp cũng có khả năng lây lan như sự xấu, nhưng sự tốt lây lan kèm theo nỗi tự hào và lòng thỏa mãn. Cái tốt của bà lớn tạo ra cái tốt của bà nhỏ. Nói một cách khác, cái tốt làm cho cái xấu thay đổi. Lời nói này không phải là lời khuyên đạo đức, hoặc giáo lý. Đây là lời ghi nhận từ kinh nghiệm.

Hiểu cái xấu là hiểu rằng: trong cái xấu luôn luôn có cái tốt, dù rất nhỏ, dù rất mơ hồ. Vì vậy, khi cái nhỏ xíu này, cái mơ hồ này được đánh thức, bồi dưỡng, phát huy, nó sẽ xâm chiếm dần cái xấu và một hôm nó mọc lông trắng.

Hiểu cái xấu là hiểu cái đẹp, nếu không được chăm sóc, cải thiện, cái đẹp sẽ trở thành xấu, như nhan sắc phụ nữ, như tài hoa của nghệ sĩ.

Hiểu cái xấu là hiểu cái học. Cái này gần gũi, thực tế, có khả năng thay đổi cái xấu.

Sau cái hiểu là cái học.

Cái học chính xác và đúng đắn nhất là học từ cái xấu của mình. Cái xấu ẩn trốn, giả dạng, hóa trang trong nội tâm.

Sở dĩ chúng nó núp lén, trốn chạy, vì chúng nó cảm thấy xấu. Đẹp khoe, xấu che. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra, nếu chúng nó tự biến thành cái đẹp?
Cần gì phải hỏi, chúng sẽ tự động nhảy ra, đứng trước nhân gian, la lớn: “Chúng tôi đã hiểu cái xấu.”
 
Làm Người.
HLNT Lê Quý Nghi collection

Bay Ra”, Tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn – Collection của Lê Quý Nghi


Chúng ta vừa sơ thảo một nửa giá trị của cái học, còn một nửa còn lại để làm gì?

Một nửa học đầu tiên có giá trị như chiếc máy đều hòa không khí. Mùa lạnh, máy phát hơi nóng. Mùa nóng, máy phát hơi lạnh. Giữ không khí và nhiệt độ trong nhà luôn thoải mái cho bản thân, gia đình và những người thân cận. Dù thành công tiền tài, danh vọng, ái tình mà không thoải mái, không bình an, thì đời sống đó chỉ để khoe trương. Giá trị học này gần giống như ý nghĩa “tu thân, tề gia,” mà Khổng Tử đã truyền đạt.

Nửa cái học còn lại vượt lên mục tiêu phục vụ bản thân và một số người giới hạn. Nó sâu rộng hơn, cao siêu hơn, đạo lý hơn, và phẩm chất làm người hơn. Vì vậy, nó cao hơn “trị quốc, bình thiên hạ.”
Làm người, trên căn bản, chính yếu là làm hai việc:

Việc thứ nhất là truyền giống để nhân loại được tồn tại. Bản năng này sinh vật nào cũng có. Nó là bản sắc của sự sống. Tuy nhiên, thông minh hơn con vật, con người lợi dụng việc sinh đẻ biến thành thú vui vẻ. Càng văn minh càng lộng hành. Không có loài vật khôn ngoan nào sau con người mà biết khai thác thú vui vẻ một cách vô tận.

Việc thứ hai là làm cho đời sống càng ngày càng tốt đẹp hơn một cách an toàn. Quá trình này chứng minh trong lịch sử văn minh của nhân loại. Nếu không, con người giờ đây chỉ là con thú rụng hết lông.

Nhưng làm sao có lịch sử văn minh? Vì giá trị của nửa cái học còn lại. Nhìn từ bên ngoài, có thể gọi là cái học để phục vụ con người. Nhìn từ bên trong, chính là cái học của ý muốn siêu phàm. (**)

Cái học này không liên quan mấy đến bằng cấp, tiền tài hoặc danh tiếng. Rất nhiều tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, vân vân sư, chỉ cắm cúi sống theo cách sống “không làm gì hết.” Chỉ “ta tắm ao ta, dù mập dù ốm, ao nhà vẫn hơn.”

Nhưng một số người nhờ học cái giá trị thứ nhất mà hiểu được giá trị thứ hai. Họ hăng say, miệt mài làm những công việc trong khi nhiều người xung quanh cho là vô ích. “Kệ mẹ mấy thằng điên. Không lo tình, tiền, danh vọng, mà lo lý tưởng.” Khôi hài thay, những thứ mà đám đông hưởng thụ tình ái, tiền bạc, danh vọng, trí khôn, vân vân, lại đến từ những lý tưởng mà họ xem thường.

Ở một góc đường, tôi đã từng gặp một người điên. Bùi Giáng đưa cho tôi cành hoa mà trắng ngà đang bắt đầu héo. Ông nói, lượm ở nghĩa địa. Đóa hoa đó, tôi giữ mãi hơn 50 năm, rụng hết, chỉ còn:

“Điên chơi cho bớt điên đầu
Điên đầu cho bớt điên rầu rĩ chơi.” (**)
 
Ghi:
(*) Thiên Thai, ca khúc của Văn Cao.
(**) Quan điểm này sẽ được trình bày trong một bài viết khác. Ý muốn siêu phàm có hình ảnh ý chí siêu nhân của Nietzsche.
(**) Mây Chiều Nay, thơ Bùi Giáng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.