Hôm nay,  

Đọc Thơ Nguyễn Lương Vỵ

11/3/202015:24:00(View: 4900)
blank

Đọc Thơ Nguyễn Lương Vỵ

 

Phan Tấn Hải

 

Tôi luôn luôn nhìn thơ như một cõi khác --- không phải cõi xa, không phải cõi gần, không phải cõi khác, không phải cõi nhiều hay cõi ít… khi so với cõi đời thường của chúng ta. Thơ chính là ngay trong đời sống này, thơ gắn liền với hơi thở chúng ta, thơ hiển lộ ngay trước mắt chúng ta, thơ bước liền theo nét bút chúng ta ghi xuống, nhưng thơ vẫn luôn luôn là một thế giới khác. Thơ là những cuộn mây phả theo đầu ngón tay khi tôi cầm bút lên, thơ là cõi vui chơi của trẻ nhỏ hiện ra khi tôi ghi xuống trang giấy từ chữ đầu tới chữ cuối, thơ là mùi trầm hương từ Hy Mã Lạp Sơn bay về xông ướp trang giấy ngay khi tôi suy nghĩ về chữ. Vâng, thơ là thế giới khác. Vâng, thơ là Niết Bàn. Vâng, đó là thơ, của người xưa, của người nay, của muôn nghìn người đang tập làm thơ dù chỉ mới một ngày, hay đã làm thơ trọn một đời. Và như thế, tôi là một trong những người may mắn đã tập làm thơ từ thời rất nhỏ, đã làm thơ gần như trọn một đời, và đã đọc thơ rất mực trân trọng như đang bước vào một thế giới khác. Cũng như thế, trong các nhà thơ đã cho tôi nhìn ra một thế giới rất riêng và rất khác, có Nguyễn Lương Vỵ.

.

Một nửa thế kỷ làm thơ. Nguyễn Lương Vỵ đã đi tới mốc thời gian đó. Đó là những gì của đếm ngày, đếm tháng. Thực sự, trong cõi thơ không có thời gian đo đếm. Cho dù mẹ đã xa thật xa, khi trang thơ mở lại, dáng ngồi của mẹ vẫn hiện ra trước mắt Nguyễn Lương Vỵ: “Bấc lụi nhớ đèn thiu / Mẹ ngồi đau dáng núi / Khuya khoắt nhớ trăm chiều / Chong mắt người viễn xứ.” (Bóng Ngày Qua I).

Trong thơ, không gian và thời gian hiển lộ trong một cõi riêng, một cõi tái sinh trong tâm tưởng và lung linh trong giấy mực. Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã khuất núi nhiều thập niên, và khi nghe được dòng thơ họ Hàn âm vang lẫm liệt, Nguyễn Lương Vỵ viết: “Ngồi im bên mộ Hàn / Nghe chiều vang búng huyết / Nghe thơ rền lẫm liệt / Nghe vũ trụ tan hoang…” (Viếng Mộ Hàn Mặc Tử, 1969).
.

Thơ Nguyễn Lương Vỵ (NLV) có thể chia theo nhiều khung riêng. Thí dụ, quê nhà và hải ngoại. Hay, thơ thời kỳ trước và sau 1975. Hay, thơ theo thể truyền thống 5 chữ, 7 chữ, lục bát, hay tự do.

Hay như, khi thơ NLY hiển lộ trong thế giới âm thanh (Hú / Mú mù mu / Vú vù vu / Mệt lả hiên trời / Chép môi khuya / Rạch tiếng đàn trong cỏ / Rạch tiếng gió trong xương / Ôi hương máu / Gai âm… “Hú”).

Hay như, khi thơ NLV lên thác xuống ghềnh với dấu chấm câu (Sóng như bông – Bông như sóng / Ru. Thét. Gào. Im. Ngất. Động / Sông nở gió – Bông nở em / Em nở ta. A! Cồi mộng!!!.... “Ghi Chú Thơ Nguyễn Xuân Hoàng”).

Hay như, khi thơ NLV đưa chúng ta trở về một góc quê nhà phương ngữ (Kể chuyện nữa đi Mẹ / Chuyện chị con cũng nghe / Chuyện chi mô rứa hè / Giọng Quảng Nôm giòn rụm… “Nắng Xuân Phân”)

Nhưng trong tận cùng, vẫn là một chất Nguyễn Lương Vỵ rất riêng. Cái chất riêng này làm độc giả nhìn thấy thơ anh không lẫn vào thơ người khác. Nơi đây, chúng ta thử đối chiếu thơ Nguyễn Lương Vỵ của năm đầu tiên xuất hiện trên các tạp chí thi ca Sài Gòn với gần nửa thế kỷ sau.

.

Thơ NLV trong năm 1969, qua bài “Cảm Ứng” chỉ ngắn với bốn câu, trong tâm thức vừa lãng mạn, vừa nổi loạn thời mới lớn tại quê nhà:

Biển đắp một tòa sương
Lạnh đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Núi gầm lên khóc nhớ…

Đó là hình ảnh đẹp của một nàng thiếu nữ đang tắm biển, rất buồn (tắm trong ánh chiều), rất như không thực (như sương), bất như ý (lạnh đôi bờ vú – biểu tượng của nữ tính, của nhan sắc và của bất an), và hứa hẹn cuộc đời sẽ rất mực truân chuyên (núi gầm lên khóc nhớ).

.

Như thế là có phần khác với hình ảnh thơ NLV của 47 năm sau, khi anh viết trên chuyến bay ngày 24.02.2016 từ Tân Sơn Nhất, Sài Gòn, đến phi trường LAX, California --- bài thơ viết theo thể 7 chữ, mỗi đoạn 4 câu, và dài 9 đoạn, nhan đề “Nếp Gấp Thời Gian 4” trích hai đoạn như sau:

Khuya. Chia tay. Tạm biệt Sài Gòn.
Hẹn. Vết bầm. Vết sướt. Vết son.
Hẹn. Bụi bến. Bụi bờ. Bụi bặm.
Hẹn. Cầu bơ. Cầu bất. Dại. Khôn.

Còn. Chút hương. Tam Kỳ. Đà Nẵng.
Chút cô liêu. Gửi lại. Sông Hàn.
Chút kỷ niệm. Bay theo. Mây trắng.
Chút lầm than. Lầm lũi. Chưa tan!

.

Giọng thơ đầy gập ghềnh, liên tục ngắt đoạn --- có phải đó là tiếng khóc, hay những lời rất mực ngập ngừng của người con xa xứ? Hay chàng có gì muốn nói, và không mở lời được? Hình ảnh đầy những bất như ý (bầm, sướt, bụi, bờ…). Xuyên suốt cả thơ Nguyễn Lương Vỵ như thế là một ý thức về khổ, về những bất như ý trong cõi này. Không phải là một tuyên thuyết chính thức về Khổ Đế trong nhà Phật, nhưng là một kinh nghiệm bản thân của thi sĩ về bất toàn cõi này, khi còn là một chàng trai mới lớn nhìn một thiếu nữ tắm, cho tới khi là một nhà thơ ở giữa thập niên của lứa tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” (60 tuổi có thể nghe được cả ý kiến bất đồng). Nói ngắn gọn, chung hết, thơ Nguyễn Lương Vỵ hay, đẹp, buồn, và đầy những tiếng nói bất như ý trong cõi này.

.

Hình ảnh quê hương hiện rõ nhiều lần trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Chúng ta gặp rất nhiều địa danh trong thơ của NLV: Qui Nhơn, Ninh Chữ, Nha Trang, Đèo Cả, Pleiku, Phố Cổ Hội An, Tam Kỳ, Ngũ Hành Sơn, Đà Lạt, Sài Gòn… hầu hết là Miền Trung. Dễ hiểu, bởi vì Nguyễn Lương Vỵ sinh năm 1952 tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Vào Sài Gòn học ở Đại Học Vạn Hạnh, và hoàn tất Cử nhân Triết nơi đây trước năm 1975. Hầu hết các nơi NLV đặt chân tới là Miền Trung và Sài Gòn.

Khi Nguyễn Lương Vỵ làm thơ với các địa danh quê nhà, quá khứ của anh hiện lên trong thơ, buồn nhiều hơn vui. Thơ trong các năm 1969-1975 của NLV một số bài có văn phong cổ thi. Thí dụ, bài thơ 4 dòng, nhan đề “Đèo Cả” làm năm 1971, anh viết: “Lâu lắm qua đèo Cả / Đá vẫn quấn mây mù / Vọng phu xanh tấc dạ / Đá vẫn sầu muôn thu!” Trong đó, hình ảnh “vọng phu” dựa vào cổ tích, và thi sĩ cảm nhận nỗi “sầu” (từ Hán-Việt) chứ không phải nỗi “buồn” (từ Nôm, thuần Việt).

.

Tuy trong thời mới lớn, còn giữ văn phong cổ thi (nói là cổ, không có nghĩa là phải đẩy vào quá khứ, nhưng cổ còn có những giá trị muôn đời) Nguyễn Lương Vỵ đã có nét đẹp của văn phong riêng, như trong bài thơ 4 dòng, nhan đề “Không Ngủ Được” làm năm 1971, như sau:

Suốt đêm không ngủ được
Vuột mất một tứ Thơ
Tự trách mình bội ước
Mảnh trăng quê dại khờ
!

.

Nơi đây, thi sĩ ngủ và thức với Thơ, hẹn và quên với trăng; nơi đây, mảnh trăng quê là người tình có hẹn ước, đã quyện vào thơ và giấc ngủ của chàng. Nửa khuya thức dậy, mới tiếc một dòng thơ đã biền biệt trong mơ.

Nguyễn Lương Vỵ nghĩ nhiều tới người xưa. Thơ anh nhắc tới Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du, Quách Tấn, Bùi Giáng và nhiều nhà thơ tiền bối. Có phải anh nghĩ tới bản thân mình và nhớ tới người xưa? Có phải anh băn khoăn về số phận có vẻ như tiền định của bản thân anh và các nhà thơ quá khứ?

Phải chăng chàng trai 20 tuổi tự thấy mình, cũng như người xưa, cũng cặm cụi làm thơ để nhìn thấy chữ làm đầu mình hóa thành núi đá và phải cất tiềng vang rền? Chàng trai Nguyễn Lương Vỵ viết trong bài thơ 4 câu nhan đề “Đỗ Phủ” như sau:

Hằng ngày hằng cặm cụi
Nhẩm thơ cất trong đầu
Cất lâu đầu hóa núi
Núi rền nên núi đau…
11.1972

.

Có phải khi đọc thơ người xưa, Nguyễn Lương Vỵ cảm thương cho người làm thơ thời nay, và cho chính anh? Trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, với 4 khổ thơ, nhan đề “Tưởng Niệm Quách Tấn” năm 1997, nơi đây trích khổ thứ ba:

Thơ chìm đêm nguyệt tận
Hấp háy đóa bình minh
Bút se niềm ưu hận
Sương bọc gió thâm tình

Có gì mà cụ Quách Tấn phải ưu với hận? Hai chữ ưu hận gặp nhiều lần trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Điều chúng ta biết rằng cuộc đời Nguyễn Lương Vỵ --- cũng như hàng chục triệu người dân Việt --- đã rất mực gian nan, đầy những biến động phức tạp, không chỉ trong thời nội chiến trước 1975 mà cả sau ngày quê nhà thống nhất. Thơ Quách Tấn buồn, nhưng không có nghĩa “ưu” như là lo âu, buồn phiền, suy tính quan tâm như chữ “ưu” trong nghĩa của câu “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ.” Cụ Quách Tấn cũng không có cuộc đời phức tạp để mang nỗi giận (hận) như ý thơ Nguyễn Trãi “Anh hùng di hận kỉ thiên niên”  (Anh hùng để lại mối hận tới mấy ngàn năm). Phải chăng Nguyễn Lương Vỵ nhìn cụ Quách và rồi tự nghĩ tới mình?

.

Nguyễn Lương Vỵ không làm thơ chính trị, nhưng anh có nhiều bài thơ mang các suy nghĩ có thể gọi là “ưu hận” để tới nỗi ngòi bút phải se lại. Vào các năm 1960s, trong những cao điểm của cuộc nội chiến tại xứ Quảng, hình ảnh chặt đầu người đưa ra chợ khủng bố được nhìn thấy thường xuyên. Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, dài 5 đoạn, nhan đề “Chép Hộ Người Đàn Bà Điên” làm năm 1985 (nhưng có thể suy đoán là chỉ về những hình ảnh trước đó khoảng 20 năm mà nhiều người gia đình xứ Quảng trải qua), Nguyễn Lương Vỵ viết trong đoạn đầu:
.

Chiều sưng húp mồ ma
Ai cắt đầu ta vậy?
Ai moi ruột gan ta
Để bây giờ lửa cháy.

.

Nội chiến đau đớn như vậy: cắt đầu, moi ruột. Trong bài thơ “Chép Trong Vườn Cũ” làm vào tháng 10/1985, Nguyễn Lương Vỵ kể chuyện bước ra từ khói lửa và được nuôi lớn bằng Thơ Ca, trích 2 đoạn trong bài dài 6 đoạn:
.

Ra đi từ chiến tranh
Tự biết ngọn nguồn khát vọng
Tự hiểu vì đâu máu nóng
Hòa âm với rừng với biển gần xa.
.
Bởi quê hương lồng lộng Thơ Ca
Đã nâng gót đời ta nhẹ bước
Đã cho ta hình hài sau trước
Mỗi chiều hôm sấm dậy trong hồn…

.

Thơ Nguyễn Lương Vỵ hầu hết không vui. Kể cả khi viết cho các nàng thiếu nữ, những hình ảnh biền biệt liên tục gặp trong thơ anh, đó là nhớ, là tưởng.

Nguyễn Lương Vỵ viết trong bài “Nhật Ký I” dài chỉ 4 câu: “Tìm một câu thơ tím / Nắn nót bóng ngày qua / Chữ thương đau ngất lịm / Chữ tri tình xót xa.” Than ôi, ghi lại bóng ngày qua, mà chữ buồn tới thương đau ngất lịm.

Hay như, trong bài “Tưởng” chỉ với 4 câu: “Tưởng một chút hương xưa / Tưởng bờ môi năm xưa / Tưởng hoài trong cơn mưa / Thơ dại chết lâu rồi!” Nơi đây, với chàng, Thơ đã chết. Không có nghĩa là chữ đã lìa đời, nhưng là những hình ảnh thơ mộng đã xa rồi.

.

Nguyễn Lương Vỵ trân trọng với các bạn văn, bạn thơ. Chúng ta thấy nhiều bài thơ anh viết tặng, từ các bạn văn thế hệ tiền bối như Bùi Giáng, Du Tử Lê, Nguyễn Xuân Hoàng, Cung Tích Biền… cho tới thế hệ ngang lứa và trẻ hơn, như Nguyễn Tôn Nhan, Võ Chân Cửu, A Khuê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Thị Khánh Minh, Lê Lạc Giao, Lê Giang Trần, Tô Đăng Khoa, Tuấn Khanh, Nguyễn Hoàng Nam, Phan Tấn Hải, Tâm Nhiên… Phương diện khác, Nguyễn Lương Vỵ cũng làm thơ cho nhiều người thân trong gia đình, cho hai người con gái của anh.

Trong khi đó, như bước vào một thế giới khác, Nguyễn Lương Vỵ làm các bài thơ Thiền với văn phong dị thường: kiên cố như núi đá,  thơ mộng như hoa nở, tịch lặng như đêm vắng, sáng rực như trăng rằm. Cảm hứng thơ nơi đây của Nguyễn Lương Vỵ là dịch một số bài thơ Thiền của Trần Thái Tông (Bài "Thi Kệ 'Bốn Núi' Của Trần Thái Tông"), của Trần Nhân Tông (như "Đọc thơ Trần Nhân Tông" và "Cảm Ứng Thơ Trần Nhân Tông"; “Mười bài thơ mùa xuân của Trần Nhân Tông”, “Ba Bài Thơ Mùa Thu Của Trần Nhân Tông”, “Bài Thơ Hữu Cú Vô Cú Của Trần Nhân Tông”).

.

Bài thơ nhan đề “Một Đời” do Nguyễn Lương Vỵ làm năm 2015, khi chợt nhớ 2 câu thơ cuối của thiền sư Không Lộ (? - 1141) trong bài thơ tứ tuyệt “Ngôn Hoài” (Bày Tỏ Tấm Lòng) với 2 câu: Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh (Có lúc lên thẳng đỉnh núi cô quạnh), Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư (Kêu dài một tiếng, lạnh cả bầu trời). Bài thơ “Một Đời” dài 3 đoạn, pha lẫn ngôn ngữ văn phạm thời nay (dấu hỏi ?, dấu chấm than !, và dấu ba chấm…) với đoạn đầu trích như sau:
.

Một đời một dấu hỏi
Một dấu than tiếp sau
Ba dấu chấm nhìn nhau
Bốn bề ngày nín bặt
Mưa bụi sớm nay nhắc
Nẻo quên chiều xa trông
Hú dài lạnh hư không
Thiền sư về trên núi.

.

 

Không chỉ dịch và làm thơ về các Thiền sư cổ thời, Nguyễn Lương Vỵ cũng làm thơ tặng người hộ trì chánh pháp thời nay, trong đó nổi bật có bài thơ “Gươm Báu” làm tặng BS Đỗ Hồng Ngọc, sau khi nhà thơ đọc xong cuốn tản văn "Gươm Báu Trao Tay" của nhà văn, bác sĩ họ Đỗ. Bài thơ “Gươm Báu” dài 3 đoạn, và trích nơi đây là đoạn cuối:
.

A! Quay về chơn tâm
Chuông đưa xanh linh ngữ
Bái vọng mây thiền tự
Tri ân tuệ nhãn kinh
Vượt lên bóng với hình
Như nhiên liền sáng tỏ
Đất trời trong lá cỏ
Đáy hồ reo thiên cao...

.

Tuyệt vời là Nguyễn Lương Vỵ. Có những câu thơ của anh hay tới nỗi, tôi đọc hoài vẫn thích, vẫn nghe âm vang rung động, vẫn thấy xao xuyến như các cậu học trò lần đầu được học về thơ. Trong các thi tập Nguyễn Lương Vỵ, gần như trang nào cũng có những câu tôi ưa thích. Một khía cạnh khác của thơ anh là, lẫn trong các dòng thơ đẹp vẫn là một nỗi buồn, và đọc thơ anh cũng là nếm được giữa những ngọt ngào thơ mộng là vị đắng của đời. Như hai câu cuối trong bài “Người Hải Ngoại” của Nguyễn Lương Vỵ:
.

Gió đưa cây cải ngọt ngào
Rau răm nhẫn nại xin chào đắng cay…

Xin chúc mừng 50 năm Nguyễn Lương Vỵ làm thơ.

.

Đọc thêm:

--- Nguyễn Thị Khánh Minh: Nguyễn Lương Vỵ. Những Viên Cuội Thời Gian

https://vietbao.com/p301420a305615/nguyen-luong-vy-nhung-vien-cuoi-thoi-gian

--- Văn Học Press: Tuyển Tập Thơ 50 năm (1969-2019) Nguyễn Lương Vỵ

https://vietbao.com/a305596/tuyen-tap-tho-50-nam-1969-2019-nguyen-luong-vy

.

 

 

 



Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Reuters ghi rằng: Lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình nói với Chủ tịch nước VN Võ Văn Thưởng (quan chức cấp cao thứ hai của VN) hôm thứ Sáu rằng cả hai nước không được quyền quên “ý định ban đầu” về tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Trung Quốc và Hoa Kỳ đang tranh giành ảnh hưởng giữa các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, quốc gia hồi tháng 9 đã nâng mối quan hệ với Washington lên thành đối tác chiến lược toàn diện, đặt kẻ thù một thời của họ ngang hàng với Bắc Kinh và Moscow.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Nếu những người Mỹ như Enrique Tarrio hay Vivek Ramaswamy gồng sức lên để, nói theo Đỗ Hữu Vị, khẳng định mình như một thứ công dân đang gánh vác gấp hai thì, ngược lại, cũng có những Việt mà nhẹ tênh, lợt lạt như thể là thứ Việt một nửa, Việt một phần năm, Việt một phần mười và, thậm chí, là “vô Việt”, “bất Việt”. Mà từ tố “bất/vô” này cũng có những căn cơ quốc tế nữa đấy. Nếu người Mỹ hay Úc gọi những hành vi không phù hợp với tính cách quốc gia là un-American hay un-Australian thì chúng ta sẽ gọi thứ hạng tương tự của mình là gì nếu không là “bất Việt” theo cách nói “bất nhã”, “bất bình thường”; hay “vô Việt”, theo cách nói “vô văn hóa”, “vô giáo dục”, “vô luân”, “vô hậu”, “vô đạo” hay “vô tổ quốc”?
Vào năm 2020, tác giả Michael Rosen đã vào bệnh viện vì bị dính Covid-19 và đã ở trong đó 40 ngày trong tình trạng bị hôn mê. Sau đó, ông có một giấc mơ kỳ lạ và sống động: ông ở Land’s End tại Cornwall ngay bờ vực của vách đá nguy hiểm. Ông cố gắng chui qua cái lỗ trên vách để được an toàn nhưng bị mắc kẹt. “Ngay sau giấc mơ, tôi có thể nhớ cảm giác đầu tiên rằng nó rất thật, rằng tôi đã ‘ở đó’ trên vách đá với vợ của tôi, Emma, đã giúp tôi. Tôi thật sự cảm thấy giống như điều đó đã xảy ra,” theo Rosen kể lại. “Điều này ở mãi với tôi. Đôi khi tôi bắt gặp chính mình suy nghĩ rằng thực sự có lúc tôi đã bị mắc kẹt trên đỉnh vách đá phía bên trái của bức tường đá khô cách mặt biển cả trăm feet ở dưới, và rằng có một cái lỗ thông qua mà tôi có thể chui qua và Emma đã đẩy tôi qua.”
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Tin giả tràn ngập. Mỹ không chịu ngăn chận vì cứ bị nói là phải cho quyền tự do ngôn luận, nhưng Châu Âu thì khác. Ủy ban Châu Âu công bố hôm thứ Năm rằng họ đang mở cuộc điều tra về thông tin sai lệch trên Meta và TikTok. Theo tuyên bố, ủy ban đã chính thức gửi cho cả Meta và Tiktok một “yêu cầu cung cấp thông tin theo Đạo luật dịch vụ kỹ thuật số (DSA). Ủy ban yêu cầu cả hai công ty cung cấp thêm thông tin chi tiết về các biện pháp được thực hiện chống lại “việc phổ biến và khuếch đại nội dung bất hợp pháp và thông tin sai lệch”.
Bạn hãy nhớ đậu xe nơi có nhiều ánh sáng, để tránh bị trộm gỡ một bộ phận nơi ống khói xe. Ba thành viên của một gia đình ở California hôm thứ Hai đã nhận tội âm mưu đóng vai trò của họ trong đường dây vận chuyển bộ chuyển đổi xúc tác (catalytic converters) bị đánh cắp trị giá 600 triệu USD từ California đến New Jersey.
Theo Bảo tàng viện Glasgow, một tác phẩm điêu khắc của Rodin bằng cách nào đó đã biến mất ở Scotland. Các quan chức tại bảo tàng thành phố cho biết bức tượng của Auguste Rodin, một thành viên trong nhóm Les Bourgeois de Calais của nhà điêu khắc người Pháp, được trưng bày lần cuối vào năm 1949. Trong 3/4 thế kỷ qua, dường như bằng cách nào đó nó đã bị thất lạc, tờ Guardian đưa tin.
Lễ tưởng niệm cố chủ tịch sáng lập Đại Việt Cách Mạng Đảng, ông Hà Thúc Ký và cố chủ tịch danh dự Đại Sứ Bùi Diễm được tổ chức vào lúc 10 giờ sáng thứ bảy ngày 14/10/2023, tại phòng hội khách sạn Best Western Plus, thành phố Santa Ana...
Tại Đại hội 19 của đảng Cộng Sản Trung Quốc, Tập Cận Bình tuyên bố: “Đã đến lúc Trung Quốc phải giành lấy vị trí trung tâm trên trường quốc tế”. Hồ Cẩm Đào đã tuyên bố: “Đồng USD là sản phẩm của quá khứ. Đồng Nhân dân tệ sẽ thành đồng tiền quốc tế”. Tập Cận Bình kích động Chủ nghĩa Dân tộc để thực hiện Giấc mộng Trung Hoa. Dân tộc Trung Hoa còn cái mặc cảm là bị xếp ngang hàng với chó...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.