Người Đi, Mây Trông Theo
Sáng nay bầu trời nặng trĩu mây.
Sáng ngày thứ sáu 13 tháng 10 năm 2006, trời u ám mây giăng. Không mưa, nhưng mây lãng đãng, quẩn quanh, như bùi ngùi, như lưu luyến, như quấn quít dấu chân vị cao tăng vừa giong buồm Bát Nhã, rời bến Ta Bà, xuôi về Biển Tuệ:
Dấu chân in mặt cát
Người đi, mây trông theo
Cuộc đời là sa mạc
Biển đời, thuyền nhổ neo (*)
Tác giả bốn câu thơ trên là Hòa Thượng Thích Mãn Giác, pháp danh Nguyên Cao, đạo hiệu Huyền Không. Ngài may mắn được sanh ra trong một đại gia đình thấm nhuần Đạo Phật nên hội đủ thuận duyên để năm mười ba tuổi đã xuất gia.
Kể từ khi chính thức hiến dâng thân tâm và trí tuệ cho Đạo Pháp, không phút giây nào Ngài lơ là việc tu học và lập nguyện xiển dương hoằng pháp. Sau khi cùng tốt nghiệp Đại Học Phật Giáo tại Huế với Hòa Thượng Thiên Ân, Ngài được cử đi du học Nhật Bản.
Chính tại xứ Anh Đào này, Ngài đã cảm nhận được sâu sa Thiền-vị để từ đó cánh hạc thi ca mênh mang bay lượn trong vô tận sắc không, khi hồn thơ đã tiềm ẩn cùng chú điệu Nguyên-Cao năm nào. Bài thơ “Nhớ Chùa” Ngài viết năm hai mươi tuổi, có những câu mà có lẽ không một Phật tử nào không từng nghe qua:
Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông (*)
Tấm lòng gắn bó với Quê Hương, Dân Tộc bàng bạc trên thi ca của Ngài:
Ta là hạt cát biển đông
Đêm ngày thao thức mãi trông lối về
Nhìn trăng, thấy rõ đường quê
Mây bay một nẻo, gió về một phương (*)
Niềm hoài hương của Ngài lúc nào cũng đầy ắp, lúc nào cũng sẵn sàng tuôn trào dù chỉ một ngọn gió, một áng mây gợi nhớ. Qua dáng vẻ điềm đạm, nghiêm túc của một vị thiền-sư, mấy ai thấy được giọt lệ khô trong tâm người viễn xứ:
Mưa gió chiều nay thấy nhớ nhung
Trời ơi, sao lạnh thấm vô cùng!
Chuông xưa ngân lại trong chùa mới
Người Việt muôn đời vẫn thủy chung (*)
Chính từ sự thủy chung đó, trái tim Ngài đã mở ra bằng Từ-Nhãn-Quan-Âm để giang rộng ngàn tay, cưu mang bao đồng đạo, bao đệ tử, bao tăng sinh, bao đồng bào trên suốt chặng đường gian khổ tìm Tự Do trong ba thập niên 70-80-90. Ngày nay, trên khắp năm châu, có lẽ không nơi nào không có những người đã từng được Ngài giúp đỡ.
Vì hạnh nguyện, Ngài đã không từ nan đi tới mọi chân trời góc bể, nhưng khi Phật sự viên thành thì Ngài lại trở về ngôi chùa khiêm tốn tại thành phố Thiên Thần (Los Angeles) vì đây là ngôi chùa Việt Nam đầu tiên được thành lập để những người Việt xa quê có nơi nương tựa tinh thần sau cơn hồng thủy. Cũng chính ngôi chùa này là mái ấm cho bao cánh chim tan tác tụ về, cùng gíong đại hồng chung, thể hiện tinh thần Bát Nhã bất sanh bất diệt.Sự thủy chung của Ngài cũng rõ nét trong từng câu thơ chân thiết, đọc lên trong ngày kỷ niệm Đại Tường cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân, người khai sáng chùa Việt Nam Los Angeles mà Ngài từng sát cánh phụng sự:
Trầm hương thoáng lại từ đâu
Lòng nghe tất cả tiếng cầu nguyện xưa
Chuông ngân vọng đến bao giờ
Lá vàng rụng xuống thành thơ nhớ người (*)
Cũng tấm lòng trĩu nặng ân tình đó, Ngài đã khóc bằng nước mắt của đại dương bốn bể, trong ngày giỗ đầu cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh, vị Bồ Tát đã chịu chết trong ngục A Tỳ cho chúng sinh được sống khi thể hiện Bi Trí Dũng trước bạo quyền Cộng Sản Việt Nam:
Lòng nghẹn chưa từng nói được đâu
Làm sao hết được nỗi u sầu
Mai này lá rụng xin về cội
Đốt nén tâm hương Lễ Giỗ Đầu (*)
Chứng kiến bao đau thương quằn quại, nhưng lòng không oán thù vì hạt Từ Bi đã thành đại thụ Bồ Đề:
Trong lòng ta vẫn sáng ngời
Ngoài ta đêm vẫn một trời trăng sao
Núi sông còn đóa hoa nào
Mây bay còn chở chiêm bao kiếp người (*)
Với Tâm Phật đó, Ngài thấy rõ muôn kiếp nhân sinh nổi trôi sinh tử nên bằng mọi phương tiện, Ngài cố chỉ cho thấy đời thường này là Huyễn, Mộng, Bào, Ảnh thôi:
Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng
Là bấy nhiêu kiếp đã tằng tử sinh (*)
Nhưng mấy ai thức tỉnh giữa cơn đại mộng đã triền miên cuốn hút nhân sinh trôi lăn trong vòng luân hồi cuồng xoáy nên đôi lúc hình ảnh Ngài thấp thoáng nỗi cô đơn của người lữ hành trên đường thiên lý:
Đêm khuya mình tỉnh thức
Mọi người còn ngủ yên
Trên trời, trăng thiền tọa
Ngoài sân sáng dịu hiền (*)
Sự cô đơn thầm lặng chuyên chở đầy Từ Bi, trắc ẩn đó, man mác trong bài lục bát ẩn dấu tâm tư của người “Bất động ngồi sắt son. Ta trở thành núi non”:
Qua thiền môn, thấy trời xanh
Kim Cang Kinh tụng chân thành từng trang
Khói hương quyện cảnh mơ màng
Không gian là chiếc y vàng quấn thân
Thiền môn xưa sạch phong trần
Kim Cang Kinh chép trầm luân thoát rồi
Ta từ sanh tử về chơi
Ngồi trên chót đỉnh mỉm cười với trăng
Thân ta là giải đất bằng
Tâm ta là nước sông Hằng mênh mông
Tình ta là đóa hoa hồng
Ý ta là cả cánh đồng tâm linh
Còn đâu nữa, Kim Cang Kinh
Thiền môn biến mất mà mình vô ngôn
Bình minh về ngập hoàng hôn
Kêu lên một tiếng, tỉnh hồn ngàn xưa (*)
Đôi nét chấm phá qua chính thi ca của Ngài cũng không thể đủ - dù chỉ là phác họa – vẽ nên chân dung của một Trưởng Tử Như Lai mang hạnh nguyện vào đời “Thượng cầu Phật Đạo. Hạ hóa chúng sanh” và ra đi như làn hương thoảng, làn hương của Giới, Định, Tuệ bay ngược gió, còn mãi xông ướp cho Đời Thường nhận biết Vô Thường để:
Có, không, đùa bỡn tháng ngày
Bao nhiêu phiền não rũ bay hồi nào
Đá kia ngồi đếm chiêm bao
Nước bao nhiêu nữa cũng vào biển trong (*)
Hòa Thượng Thích Mãn Giác, pháp danh Nguyên Cao, đạo hiệu Huyền Không vừa ra đi, nhưng chỉ là sự ra đi của thân tứ đại. Quà tặng vô giá Ngài còn để lại là bao công trình trước tác, biên soạn, dịch thuật kinh điển, là bầu trời mênh mông thi ca mà Ngài đã dùng như phương tiện để trưyền đạt đạo pháp, là tấm lòng từ ái thể hiện bằng chính cuộc đời Ngài, là ở ngay phút ra đi vẫn tràn ngập tình thương nhân thế:
Còn đây, giọt lệ cuối rơi
Trần gian xin hứng, cuộc đời xin mang (*)
Ngưỡng nguyện Giác Linh Hòa Thượng cao đăng Phật Quốc.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Diệu Trân
(Như-Thị-Am 13 tháng 10 năm 2006)
(*) Thơ Huyền Không