Thời xa xưa, con người sống gần gũi với thiên nhiên nhiều hơn, nhân quyền không được đặt ra. Nhưng từ khi xã hội con người đông hơn, sự giao tiếp giữa con người và con người ngày càng phức tạp, những quyền do Tạo hóa ban cho con người kể từ khi lọt lòng mẹ cần phải được định cho rõ. Điều 55 của bản Hiến Chương LHQ được chấp thuận năm 1945 ghi rõ “Cần phải tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ và tôn giáo”. Tất cả những nước gia nhập LHQ đều phải chấp nhận Hiến chương đó. Việt Nam đã gia nhập LHQ từ năm 1976. Nhưng nhân quyền gồm những điều gì"
Trước hết có bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền do LHQ ban hành năm 1948, trong đó đoạn mở đầu nhấn mạnh “việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người”. Để xác định từng chi tiết những quyền của con người, có hai công ước được ban hành năm 1996. Đó là Công ước Quốc tế về những quyền Dân sự và Chính trị và Công ước Quốc tế về những quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa.
Trong phạm vi bày này chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến quyền tự do tinh thần và tự do chính trị, tức là quyền tự do dân chủ, ghi trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền từ điều khoản 18 đến điều khoản 21. Tự do tinh thần có nghĩa là tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Điều 18 ghi quyền tự do tôn giáo bao gồm quyền thờ phụng, quyền truyền giáo và hành đạo cũng như thay đổi tôn giáo. Thờ phụng và truyền bá tín ngưỡng có thể diễn ra tại các nơi công cộng hay tại nhà riêng, có tính cách tập thể hay riêng tư.
Như vậy một chế độ cai trị lập ra những tôn giáo “quốc doanh”, để kiểm soát một nhóm người truyền đạo, rồi lấy lý do đó bắt bớ, giam cầm, truy bức, cản trở những tu sĩ cũng ở trong cùng tôn giáo nhưng không là “quốc doanh”, tức là chế độ đã vi phạm trắng trợn điều khoản nói trên. Chế độ Cộng sản Việt Nam không chỉ vi phạm một điều luật quốc tế, mà với thủ đoạn “quốc doanh” họ đã phạm vào tội gây chia rẽ tôn giáo, đặt ra một lằn ranh giữa những người “có” ân huệ quốc doanh và những người “không có” ân huệ đó để tha hồ đàn áp tôn giáo. Mặt khác khi chế độ CSVN cản trở những “nhà thờ tại gia” của đạo Tin Lành hay cho Công an canh gác kiểm soát sự ra vào các tu viện của các vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà họ đã không thể “quốc doanh hóa”, hiển nhiên họ đã vi phạm điều khoản nói “thờ phụng và tự do tôn giáo có thể diễn ra tại các nơi công cộng hay tại nhà riêng, có tính cách tập thể hay riêng tư”.
Quyền Tự do Lương tâm và Tự do Tôn giáo đi liền với Tự do Tư tưởng và Phát biểu Quan điểm. Đây là một quyền cao quý nhất của con người. Công dân một nước có quyền nói, viết và in ấn tự do và chỉ chịu trách nhiệm khi có sự lạm dụng tự do trong những trường hợp luật định. Về điểm này, chính quyền Cộng sản đã ra những luật độc đoán mà hậu quả chỉ có nghĩa là bóp chết quyền tự do ngôn luận. Ngoài ra chế độ báo chí nhà nước đã vùi dập tự do báo chí, không cho phép tư nhân được ra báo, đã vậy còn chồng chất thêm một sự kiểm duyệt khắt khe đối với cả những báo chí của nhà nước. Kiểm soát chồng chập là vì chế độ Cộng sản nghi kỵ cả những cán bộ viết báo của họ.
Hơn nữa, khi Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền xác định quyền tự do hội họp và lập hội, chế độ Cộng sản là chế độ độc đảng, nhiều lần tuyên bố không chấp nhận đa nguyên đa đảng, họ đã công khai đi ngược lại điều khoản này một cách trắng trợn, không thể nào chối cãi. Đã vậy họ còn vi phạm nghiêm trọng điều 21 của Tuyên ngôn Thế giới Nhân quyền, khi Đại hội đảng của họ chỉ định nhân sự lãnh đạo và quyết định chủ trương đường lối cho cả nước, người dân trong nước không được tham dự. Điều 21 viết: “Các công dân được hưởng quyền và cơ hội bình đẳng tham dự vào chính quyền cả nước, hoặc trực tiếp bằng cách ứng cử hoặc gián tiếp qua các trung gian họ tự do lựa chọn bằng lá phiếu của họ”. Ở Việt Nam đảng Cộng sản, chọn đảng viên của họ chớ dân không chọn, chỉ có đảng mới có quyền tổ chức đại hội để quyết định nhân sự, đường hướng và vận mạng của cả nước.
Như vậy nhân quyền trên tổng thể cũng như trong từng chi tiết nhỏ, hiển nhiên là mục tiêu cần phải tiến đến cho bằng được. Nếu coi nhân quyền như một phương tiện, lấy đó làm áp lực để mưu đồ một mục tiêu nào khác, đó là chuyện nguy hiểm vô cùng. Chẳng hạn như khi dùng áp lực nhân quyền để đòi hỏi những mối lợi về giao thương, rồi khi mục tiêu đạt được là bảng hiệu nhân quyền cũng bị bỏ rơi luôn. Nhân quyền là cái đích trước mắt chớ không phải cái bảng hiệu treo lủng lẳng trên ngực các tay quán quân chạy đua về nhân quyền.
Bài học của bài học là dành cho các ông thày dạy bài học đó. Khi chính các ông thày cũng vi phạm những điều các ông dạy, thì các học trò cũng có thể lên mặt dạy lại các ông, chớ đừng mong dạy họ điều gì. Dạy thì dễ, tư cách làm thày mới khó.