Khoảng hơn 40 năm trước đây, tôi được xem trên TV Mỹ một hình ảnh thời sự về việc Tổng Thống Sukarno của Indonesia, lúc đó gọi là nước Nam Dương, công du Mỹ và đến đọc diễn văn tại Quốc hội Hoa Kỳ. Hình ảnh làm tôi nhớ mãi đến nay là Sukarno mặc Âu phục nhưng đầu đội nón quốc túy của Nam Dương mà đa số là dân Hồi giáo, khi bước lên bục diễn đàn ông ta chỉ ngón tay lên trời, dõng dạc tuyên bố một câu chắc nịch: "Nơi Chúa tôi tin" bằng tiếng Anh. Cả Quốc hội Mỹ đứng lên vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Indonesia là nước có đông dân Hồi giáo nhất thế giới từ xưa đến nay. Vậy mà một ông Tổng Thống Hồi giáo đến thăm nói một lời đặc trưng cho tinh thần tín ngưỡng của dân Mỹ, y hệt mấy chữ vẫn ghi trên những tờ giấy đô-la, làm sao người Mỹ không thích.
Nên nhớ lúc đó Mỹ chưa có vấn đề gì với Hồi giáo, Mỹ là nước dân chủ, tôn trọng tự do tôn giáo. Vấn đề đặt ra là Sukarno nói lên câu nói đó có ý đồ gì" Hãy nhìn lại vai trò của Sukarno vào thời buổi xa xưa đó. Indonesia được độc lập thoát khỏi ách thực dân Hòa Lan vào năm 1956. Sukarno được lên làm Tổng Thống dưới cái gọi là "dân chủ chỉ huy". Trong thời cai trị của Sukarno, đảng Cộng sản Nam Dương phát triển rất mạnh. Đến năm 1966 Sukarno trở thành Tổng Thống suốt đời. Thế nhưng cùng lúc đó, các tướng lãnh quân đội Indonesia, vốn là những người quốc gia chống Cộng, đã có những bất đồng nghiêm trọng với Sukarno chỉ vì ông này đã dung túng Cộng sản.
Có thể lúc đó Sukarno cũng muốn dẹp bớt thế lực của Cộng sản, nhưng ông ta lại sợ. Nội tình Indonesia đã bất ổn từ lâu vì dân chúng Indonesia sống trong nghèo khổ đã nổi loạn đi giết dân Hoa kiều làm ăn phát đạt theo lối kinh doanh bóc lột dân nghèo. Các vụ nổi loạn khiến Trung Cộng mượn cớ can thiệp vào việc nội bộ của Indonesia với danh nghĩa bênh vực người "đồng hương", nhưng thật ra để trực tiếp thao túng đảng CS Nam Dương. Sukarno càng sợ hơn nữa vì vào thời điểm đó ở Việt Nam, Cộng sản Bắc Việt đang mở những trận đánh lớn chống quân Mỹ và VNCH ở miền Nam. Chính đây là lúc Sukarno công du Mỹ và ngón tay ông ta chỉ lên trời, thực ra chỉ vào.... đồng đô-la Mỹ. Ông ta hy vọng xin viện trợ Mỹ thật nhiều để phục hồi nền kinh tế Indonesia sắp sụp đổ và đang bị Cộng sản lợi dụng để mưu đồ cướp chính quyền. Thế nhưng mọi việc đã muộn, năm 1967 đại tướng Suharto, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Indonesia, đã đảo chính lật đổ Sukarno.
Chuyện xưa tích cũ tuy nhỏ nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt đối với tình hình quốc tế hiện nay trên một quy mô rất lớn. Đó là thủ đoạn của những người và những nhóm người đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện mưu đồ chính trị. Trên thế giới ngày nay có ba tôn giáo lớn. Thứ nhất là Ky-tô giáo, gồm cả các hệ phái Gia tô và Tin lành, thứ hai là Hồi giáo có hai hệ phái Sun-ni và Shi-a, thứ ba là đạo Phật. Riêng tín đồ Ky-tô giáo và Hồi giáo đã chiếm hơn nửa dân số thế giới. Tôn giáo là di sản quý giá nhất của loài người, nếu không có đức tin tôn giáo, loài người không thể tồn tại. Trong bản quốc ca của Mỹ đã có câu "Chúng tôi đặt niềm tin nơi Chúa", coi như châm ngôn của cuộc sống. Đó là những chữ đáng đề cao, không phải để lợi dụng hay châm biếm. Thật ra đạo Chúa từ bao thế kỷ qua đã là nền gốc của văn hóa Tây phương và Mỹ.
Phát triển tôn giáo để duy trì đạo lý là điều nên làm, nhưng lạm dụng tôn giáo vì những tham vọng chính trị cá nhân hay phe nhóm lại là điều tối kỵ, đáng chê trách. Chính phủ của TT Bush hiện đang phải đương đầu với một hiểm họa lớn hơn gấp bội lần những tham vọng chính trị thông thường trên thế giới. Đó là âm mưu của các nhóm khủng bố theo Osama bin Laden muốn làm một cuộc cách mạng quái đản: thiết lập các chế độ thần quyền cai trị bằng luật Hồi giáo. Chiến tranh Iraq là điểm xuất phát của cách mạng thần quyền hóa các nước Hồi giáo để từ đó đi chinh phục..."ngoại đạo", nghĩa là chống lại cả thế giới.
Nhưng hầu hết các nước Hồi giáo Á rập Trung Đông ở sát bên Iraq đều chống thần quyền, nhất là những nước lớn có vua cai trị lại càng chống mạnh, vì các ông vua và gia đình họ có thể mất mạng nếu các giáo sĩ cực đoan nắm quyền. Về mặt hệ phái, phe Sun-ni đa số ở Trung Đông không thích chế độ thần quyền. Iran đã có chế độ thần quyền hệ Shi-a, trong khi các nhóm khủng bố do bin Laden lãnh đạo lại thuộc hệ Sun-ni. Nếu cuộc cách mạng Sun-ni của bin Laden thành công, các lãnh tụ Hồi giáo Shi-a ở Iran cũng mang họa.
Vậy cái gì có thể chống lại được nạn khủng bố" Chiến tranh Iraq kéo dài trong 4 năm nay đã chứng tỏ một sự thật không thể chối cãi: vũ lực không diệt được khủng bố. Mỹ là siêu cường đệ nhất, có sức mạnh quân sự lớn nhất thế giới, có những vũ khí hiện đại tinh xảo và một kho vũ khí hạt nhân có sức tàn phá dữ dội khủng khiếp. Thế nhưng tất cả những sức mạnh đó vẫn thua một loại vũ khí thô sơ nhất: "bom người", kẻ khủng bố cột bom vào người đi vào đám đông cho nổ bom để tự sát và giết luôn hàng loạt người bất luận là ai ở xung quanh hắn lúc đó. "Bom người" là vũ khí kinh hoàng của thời đại. Quân đội Mỹ ở Iraq đã có nhiều nỗ lực đáng kể, con số thương vong cũng không phải nhỏ. Nhưng sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Iraq lại là một cái cớ để bọn khủng bố hoành hành, gây chiến tranh hệ phái.
Bây giờ nếu Mỹ rút quân, chiến tranh hệ phái ở Iraq có thể lan rộng, nhưng hậu quả cũng không ghê gớm lắm như người ta tưởng. Chiến tranh nào cũng phải có ngày chấm dứt. Gia dĩ nếu không có Mỹ, chiến tranh hệ phái sẽ làm lộ mặt kẻ thù chung của hai bên: bọn khủng bố. Chỉ có người Hồi giáo mới trừ được nạn khủng bố Hồi giáo. Nước Mỹ duới quyền lãnh đạo của TT Bush đã gây ra chiến tranh Iraq. Thiết tưởng bây giờ ông Bush cũng nên thiết lập một lịch trình rút quân từng phần để thoát ra khỏi bãi sình lầy Iraq. Hãy để cho những người Hồi giáo chân chính giải quyết những vấn đề của họ với nhau.