Hôm nay,  

Sinh Y Học: Bệnh Tiểu Đường Loại 3 Là Gì?

17/07/201000:00:00(Xem: 10058)

Sinh Y Học: Bệnh tiểu đường loại 3 là gì"

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô
Nhiều thử nghiệm cho biết có sự liên hệ giữa bệnh tiểu dường và bệnh lãng quên, trong đó có bệnh lãng quên Alzheimer. Linda Wood và Stepehen M. Setter đưa ra ý kiến tiểu đường loại 3, bệnh tiểu đường liên hệ tơí não, tới hệ thống thần kinh. Bài đăng trong báo US Pharmacist 35: 36, 2010. Theo các tác giả thì có nhiều tài liệu cho thấy sự khiếm khuyết của chất Insulin trong não bệnh nhân Alzheimer, giảm sự tiêu dùng của chất đường trong não, và giảm năng lượng dinh dưỡng trong não. Bệnh Alzheimer cũng liên hệ hiện tượng kháng insulin trong não. Ngay cả trường hợp giai đoạn đầu bệnh lãng quên Alzheimer cũng thấy hiện tượng Insulin không xâm nhập được vào não và có hiện tượng kháng insulin trong não. Ngoài ra, thụ thể Insulin còn tăng cao trong não bệnh nhân lãng quên Alzheimer để cân bằng tình trạng kháng insulin trong não.
Các tác giả đã đưa ra giả thuyết giảm chất insulin trong não, giảm mức Acetylcholine, và giảm luồng máu chảy trong não. Thay đổi lượng insulin có thể tăng cao thành lập chất beta-amyloid và chất bạch đản tau protein.
Gần đây cũng có giả thuyết cho rằng chất ceramides trong họ mỡ lipid có thể đóng vai trò quan trọng trong hiện tượng kháng Insulin và bệnh lãng quên.
Những kiểm chứng kể trên đưa ra giả thuyết liệu có tiểu đường loại 3 tức là tiểu đường não"
Trước hết, trong một tường trình của Gs Suzanne M. de la Monte thuộc Đại Học Y Khoa Brown có nêu lên vấn đề kích thích tố Insulin sản xuất từ não. Mức insulin và thụ thể insulin giảm thấp trong não bệnh nhân Alzheimer. Bài đăng trong báo Journal of Alzheimer Disease, tháng 11, 2005. Loạn chức năng hoạt động Insulin có thể là nguyên nhân gây tế bào não đã bị chết.
Trong một tường trình do Jose A. Luchsinger và các đồng nghiệp đăng trong báo American Journal of Epidemiology, 154: 635, 2001, nghiên cứu liên hệ giữa bệnh tiểu đường với 2 bệnh lãng quên Alzheimer và dementia. Nghiên cứu theo dõi 1262 người già không bị bệnh lãng quên, trong 3,4 năm từ 1992 tới 1997, cho tơí khi xuất hiện triệu chứng lãng quên Alzheimer hay dementia, không liên hệ tới tai biến mạch máu não. Tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường ở điểm gốc là 20%. Kết quả cho thấy có liên hệ giữa bệnh tiểu đường và những dấu hiệu của bệnh Alzheimer, nhận thức bị hư hại, không bị bệnh dementia và không bị tai biến mạch máu não.


Tăng cao nguy cơ tiểu đường loại 2 trong bệnh Alzheimer cũng được nhóm Bs Juliette Janson và các đồng nghiệp phổ biến trong báo Diabetics, 53: 474, 2004. Một trong những tương quan là những chất tiền amyloid tích tụ trong tuyến tuỵ tạng (pancreas) sinh bệnh tiểu đường và trong não sinh bệnh Alzheimer. Hiện tượng tương đồng đưa tới một dấu hỏi về cơ nguyên chung thành lập bẩm chất (predisposition) amyloid trong đảo tế bào (islet) tuyến tụy tạng và não.
Trong một bài tham khảo đăng trong Experimental Gerontology, 38: 941, 2003, Ts Claude Messier đề cập bệnh tiểu đường có thể gây nguy cơ bệnh lãng quên Alzheimer qua những nguyên nhân bệnh mạch máu não tiểu đường. Bệnh nhân tiểu đường có di thể ApoE4 allele tăng nguy cơ bệnh Alzheimer.
Trong cuộc hội thảo cách đây mấy ngày, 12 tháng 7, 2010 tại Honolulu, Hawai, của Hội Alzheimer Quốc Tế cho biết có một gene tên là FTO liên hệ bệnh mập phì và bệnh Alzheimer. FTO đã từng được biết trước đây ảnh hướng tơí chỉ số trọng khối cơ thể (BMI), mức leptin trong máu, và nguy cơ bệnh tiểu đường. Những yếu tố nguy cơ bệnh mạch máu cũng từng được biết liên hệ nguy cơ bệnh Alzheimer.
Alzheimer là bệnh lãng quên do một bác sĩ người Đức khám phá năm 1906. Người bị bệnh Alzheimer mất trí nhớ, lẫn lộn, không thể lý luận, không thể học hỏi và tưởng tượng. Ngoài ra còn bị tính tình thay đổi, ưu trầm, không định hướng được, không lý luận được, và không làm được những công việc thường ngày trong gia đình. Alzheimer là bệnh lãng quên quan trọng nhất của người già. Trong giai đoạn cuối cùng, óc đầy những tảng amyloid nằm trong não và teo não. Bệnh nhân nằm liệt giường. Hiện giờ có khoảng 5.1 triệu người ở Mỹ bị Alzheimer.
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô
Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, Một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập đoàn Nhân sâm Hàn Quốc tại Hoa Kì (KGCUS), nơi sản xuất thương hiệu nhân sâm số một thế giới CheongKwanJang, tự hào giới thiệu thức uống thảo dược có ga HSW kết hợp hồng sâm 6 năm tuổi, tới các khách hàng quan tâm đến sức khỏe tại WaBa Grill, một trong những chuỗi nhà hàng hàng đầu chuyên phục vụ món cơm lành mạnh
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.