Thư Từ Giã Của Tạp Chí Khoa Học & Môi Trường RFA Sau 3 Năm
Cùng Quý thính giả của Đài ACTD (RFA).
Cùng Quý đọc giả trên các Diễn Đàn Internet.
Cùng Quý thính giả và đọc giả ở Việt Nam.
Tôi xin trân trọng thông báo cùng tất cả Quý thính giả và đọc giả người Việt khắp nơi trên thế giới, ngày 8 tháng 11 năm 2006 là buổi phát thanh cuối cùng trên Đài Á Châu Tự Do (RFA) có trụ sở tại Washington, Hoa Kỳ của Tạp chí Khoa học & Môi trường do Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VASTS) tại Hoa Kỳ phụ trách.
Qua hơn ba năm phát thanh hàng tuần, chúng tôi đã chuyển tải một số thông tin khoa học và môi trường cùng những vấn đề liên quan đến sự phát triển trong đó việc bảo vệ môi trường không đúng cách của Việt Nam đã dự phần tối quan trọng vào sự suy thoái xã hội ngày hôm nay. Chúng tôi xin lần lượt tóm tắt những đề tài thảo luận trong suốt thời gian qua. Đó là:
o Cảnh giác và nhắc nhở những quy định, quy ước, công ước quốc tế của Liên Hiệp Quốc trong lãnh vực môi sinh trên tòan thế giới mà Việt Nam đã cam kết để có thể thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào tiến trình tòan cầu hóa nhanh hơn;
o Nêu lên những nguyên nhân làm suy thoái môi trường trong phát triển qua việc ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm, cùng sự thoái hoá của đất đai do sử dụng bừa bãi, quá tải đủ loại hoá chất độc hại như phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật v.v...;
o Gợi ý qua những bài phân tích tỷ giảo giữa sự phát triển và cân bằng bảo vệ môi trường ở các quốc gia đang phát triển trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Chí Lợi, và Nam Dương v.và.. để từ đó Việt Nam có thể rút ra những kinh nghiệm thực tế cho chính mình;
o Đề nghị và gợi ý những phương pháp giải quyết vấn đề môi sinh do phát triển và nạn gia tăng dân số của Việt Nam như phế thải kỹ nghệ, y tế, rác sinh hoạt gia cư và việc xử lý nước rỉ v.v...;
o Góp ý về các nguyên nhân gây ra lũ lụt thường xuyên hơn ở ĐBSCL so với giai đoạn trước năm 1975. Hiện tượng sạt lở cũng là hậu quả của việc "dẫn thủy nhập điền" không được điều nghiên nghiêm chỉnh qua các ông trình đào kinh và đấp đê.
o Một mô hình tóan về lưu lượng nước sông Cửu Long qua việc đúc kết dữ kiện của sông Cửu Long do Ủy ban Mekong thực hiện trên 30 năm qua;
o Một trong những vấn nạn lớn của Việt Nam hiện tại là nguồn thực phẩm tiêu dùng của người dân bị nhiễm độc hóa chất do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan cũng được trang trãi qua nhiều kỳ hội luận và cũng được người dân trong nước lưu ý tận tình.
Đặc biệt, hai vấn nạn có tính cách quốc gia và quốc tế như nạn ô nhiễm arsenic trong nguồn nước và vấn đề hoá chất diệt cỏ dại hay chất Da cam đã được chúng tôi trình bày rất chi tiết qua hơn 40 bài tham luận.
Về vấn nạn arsenic, chúng tôi đã cảnh báo UNICEF qua Hội nghị do VASTS tổ chức vào năm 2001 tại Đại học Santa Ana, CA sau hơn hai năm phân tích các mẫu nước và đất ở Việt Nam. Báo cáo sơ bộ đã được gửi đến Văn phòng UNICEF Hà Nội vì cơ quan quốc tế nầy là nguyên nhân chính cho việc cổ súy và tài trợ hơn 300 ngàn giếng đóng ở Việt Nam trong chương trình cung cấp nứơc sạch (!) cho người dân. Việt Nam đã bài bác những lời cảnh báo trên ngay sau đó. Nhưng đến năm 2002, Thủ tướng Việt Nam thời bấy giờ là Phan Văn Khải đã cho thành lập một ủy ban liên bộ Kế hoạch, Môi trường và Tài chánh để điều tra về tình trạng nhiễm độc nầy.
Kết quả là, hiện nay Việt Nam đang có trên 10 triệu nạn nhân bị nhiễm độc arsenic theo ước tính của Liên Hiệp Quốc. Và trong nhiều làng xã, binh ung thư đang hoành hành, cũng như triệu chứng như da bị nám đen ở lòng bàn tay, bàn chân xảy ra ở nhiều nơi. Đó là giai đoạn đầu tiên sau năm năm bị nhiễm độc dài hạn do chứng bịnh arsenicosis. Cũng ở một số nơi, người dân đã bắt đầu lấp giếng và xây hồ để hứng nước mưa dùng cho sinh hoạt gia đình.
Vấn đề thứ hai, đã được quốc tế lưu tâm là Vu kiện chất độc màu Da cam, Dioxin của Việt Nam. Đây là một vụ thuần túy chính trị, Việt Nam nêu ra để đánh động lương tâm của "bè bạn" trên thế giới. Từ hơn bốn năm qua, chúng tôi luôn luôn đề xướng một giải pháp căn cứ vào Biên bản ghi nhớ ở Hội nghị Quốc tế về Dioxin diễn ra ở Hà Nội vào tháng 3, 2002; trong đó Hoa Kỳ đề nghị thiết lập hai trung tâm nghiên cứu ảnh hưởng lên sức khỏe và môi trường của hoá chất diệt cỏ mà Hoa Kỳ đã phun xịt trong thời gian chiến tranh qua chiến dịch Ranch Hand từ năm 1962 đến 1971. Hai địa điểm được chọn lựa là Biên Hoà và Đà Nẵng là hai nơi dùng làm kho chứa chất Da cam và cũng là hai điểm nóng được cả hai phía ghi nhận, để từ đó có một kết luận tương đối khoa học về ảnh hưởng của hóa chất nầy hay các loại hóa chất độc hại khác ảnh hưởng lên môi trường và con người.
Sau một thời gian đeo đuổi vụ kiện, cho đến hôm nay, hồ sơ vẫn còn nơi tòa Kháng án Khu vực II New York. Nhưng vào tháng chín vừa qua, Việt Nam đã đồng ý cho Hoa Kỳ viện trợ việc thiết lập và tài trợ hai trung tâm nghiên cứu trên và cố vấn cũng như huấn luyện chuyên viên phân tích và nghiên cứu.
Qua những sự kiện trình bày trên đây, chúng tôi nhận thấy vai trò của chúng tôi và Hội VASTS đã tương đối hoàn tất trong việc thông tin và quảng bá đến đọc giả và thính giả khắp nơi, nhất là những vấn nạn môi trường cùng hướng giải quyết cấp bách để người dân cùng khó ở Việt Nam biết đến để tự cứu lấy chính mình.
Hội Khoa Học & Kỹ thuật Việt Nam (VASTS) hiện đang đặt trọng tâm vào hai trọng điểm then chốt khác trong công cuộc chấn hưng Việt Nam trong tương lai; đó là vấn đề y tế công cộng và giáo dục ở Việt Nam. Đây là hai vấn đề Việt Nam cần phải chấn chỉnh càng sớm càng tốt. Chúng tôi và các thành viên trong Hội đang tập chú vào các cuộc khảo sát và nghiên cứu nầy.
Sau hết, chúng tôi cũng không quên cám ơn Quý Vị thính giả, đọc giả trong suốt thời gian qua đã theo dõi, lắng nghe cùng gửi thư góp ý lên các Diễn đàn và Đài RFA. Hy vọng trong một tương lai không xa, tiếng nói của chúng tôi sẽ không phụ lòng Quý Vị và sẽ cố gắng không ngừng nghĩ qua các phương tiện truyền thông khác trên thế giới.
Trân trọng kính chào Quý Vị.
Orange, ngày 6 tháng 11 năm 2006
Mai Thanh Truyết
Chủ tịch Ban Chấp Hành Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam