Dòng thanh âm trong trẻo vang lên như tiếng pha lê khua, laị như tiếng ngọc giao nhau. Bọn nhạc công thiên nữ, đồng nam ngơ ngác nhìn nhau:
- Miền đất phương Nam của xứ Sa- Bà có âm thanh này sao?
Bọn họ lắng nghe, khi thì chau mày, khi thì ngẩn ngơ…Tiếng tơ réo rắt xoáy sâu vào tâm hồn họ, có lúc cung đàn laị thì thầm như lời tự tình của tình yêu… Vườn địa đàng hay chốn trần gian khi yêu nào có khác gì nhau! tất cả cùng chơi vơi trong bể tình, khi bên nhau thì cả một địa đàng bướm hoa, khi không tròn mộng thì cát bụi ùn lên. Bất chợt cung đàn vang lên âm bén như gươm đao, nhọn như giáo mác. Nó nói lên nỗi lòng người nghệ sĩ đau vì nước non đang hồi nhiễu nhương sóng gió, tiếng tơ như cứa lòng cắt ruột. Quốc gia này, non nước này của cha ông từ bao đời xây dựng giữ gìn, vậy mà giờ đây bọn hậu sinh đem ra chia chác, bán mua để đổi lấy sự vinh thân phì gia. Tiếng hạc cầm laị như sấm sét, như bão giông. Nó nhắc laị những chiến công hiển hách của tiền nhân. Nó như hồi kèn xung trận, như tiếng trống xuất binh. Nó laị vang lên khúc khải hoàn ca khi đất nước sạch bóng quân xâm lăng.
Người nghệ sĩ không chỉ biết vuốt ve nâng niu cung đàn để mua vui, không chỉ tấu hạc cầm để mưu sinh, càng không phải khảy khúc này để tự ru mình “chỉ làm nghệ thuật” mà quên đi bổn phận con dân! Trước khi là một nghệ sĩ, người nghệ sĩ đã là một công dân. Quốc gia một khi mất thì liệu người nghệ sĩ kia có còn “đất” để mà ngồi đó nắn nót cung đàn?
Dòng thanh âm vi diệu kia từ những ngón tay xương thịt, dòng tư tưởng trác tuyệt từ trong thân xác tứ đại của người đã làm trời đất giao hoà, lòng người dậy sóng. Nghề chơi cũng lắm công phu, cũng đã từng:” ..nhỏ máu năm đầu ngón tay” mới thành nghề, thành tay lão luyện. Công phu cùng với tiếng lòng lưu xuất đã làm nên tuyệt tích cho đời! Bởi vậy nên:
Tiếng đâu thánh thót cung đàn
Vô tình khách những lỡ làng tử sanh
Rằng người phát tiết tinh anh
Tiếc mình muôn dặm ngoại thành Hạc Hoa
( thơ – TLTP)
Hạc cầm từ phương Tây xa xôi laị về với phương Đông, cội nguồn của bao nền văn minh, cội nguồn của cung thương ngũ âm. Hạc cầm từ Babylon, Athens, Rome, Vienna… về thành đô phương Nam của nước Việt. Khúc nhạc trong treỏ bay lên, bay cao, bay xa… vượt qua những âm thanh xô bồ nhộn nhịp của đời thường. Cả thành đô với bao nhiêu người nhưng dễ có mấy ai lắng tai nghe và trong số ấy có mấy ai thẩm thấu được cung đàn? Bởi thế người xưa mới nói: “Đắc nhất tri kỷ khả dĩ bất hận”. Cung đàn thà không gảy chứ đem gảy cho kẻ thô lậu thì đau lắm hạc cầm.
Hạc cầm thố lộ tiếng lòng, nhắn nhủ lời thương lời nhớ. Khách vô tình lướt qua, chỉ có kẻ du tử dừng chân lắng nghe trọn cung đàn, để rồi tương tư từ đó. Người nghệ sĩ mỉn cười, đời có được giây phút này kể cũng không tiếc chi cuộc trăm năm ngắn hay dài! Tình yêu người nghệ sĩ gởi vào tiếng đàn đã lọt vào trái tim gã du tử, kẻ tình cờ ghé đến nơi này, để rồi mãi mãi và mãi mãi…
Tấm lòng yêu nước thương dân của người nghệ sĩ, thức tỉnh người mê, gióng lên lời oán thán của người dân nước Việt, nhắc nhở dĩ vãng hào hùng và hiển hách của cha ông. Mơ mộng về những giai thoại hay điển tích đầy ắp tình người. Nếu người nữ tù trưởng cỡi bạch tượng xung trận trong khí thế hào hùng bao nhiêu, thì những đêm lửa trại rượu cần laị đắm đuối và quyến rũ bấy nhiêu. Người nghệ sĩ, gã du tử… bỏ đi sao đành!
Hạc cầm, vốn là món đồ trang sức cho nhà quyền quý, là thanh âm dành cho những bậc am hiểu… Nay Hạc cầm hoà mình với người dân, nói lên tiếng nói của người dân: hãy giữ lấy nước nhà! Hạc cầm vẫn ngày đêm thao thức, tình yêu cá nhân không tách rời tình yêu đất nước. Nghệ thuật không sống trong tháp ngà mà sống với nhịp tim và hơi thở của cuộc sống đời thường.
Dòng thanh âm vang lên, trời đất phong quang, lòng người thênh thang, cổ kim cùng hiện, trong ngoài cùng tương ái tương thân. Người nghệ sĩ kia vẫn ngày đêm nắn nót cung đàn. Gã du tử nọ vẫn thao thức với những dòng thi ca. Bọn họ như con tằm miệt mài nhả tơ hiến dâng cho đời.
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 8/2019