Hôm nay,  

Khoảng cách giàu nghèo trong nước Mỹ - Phần 4: Toàn Cầu Hóa

17/08/201915:38:00(Xem: 4449)

Khoảng cách giàu nghèo trong nước Mỹ - Phần 4: Toàn Cầu Hóa

  

Đoàn Hưng Quốc

  

Ai cũng biết đến sự kiện nổi bật của Bức Màn Sắt sụp đổ vào cuối thế kỷ 20, nhưng quan trọng không kém khi một Bức Màn Tre được vén lên trong cùng khoảng thời gian này. Bức Màn Tre, tức là trào lưu hội nhập quốc tế của Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Âu, Mễ Tây Cơ và vùng Đông Nam Á đã làm thay đổi bộ mặt thế giới trong thế kỷ thứ 21. Nhiều người từng linh cảm như một trận đại hồng thủy (titanic shift) 500 năm mới có một lần khi trọng tầm kinh tế chuyển dịch từ Đông sang Tây nhưng chỉ gần đây mới bắt đầu hiểu được hệ lụy của nó: khi hơn 3 tỷ nhân lực từ các nước đang mở mang tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu góp phần mang đến sự thịnh vượng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều chấn động chính trị do khoảng cách giàu nghèo ngày càng sâu sắc tại cả các quốc gia công nghiệp lẫn những nước đang phát triễn. Bài viết này phân tích về tác động của Bức Màn Tre đến khối Tây Phương, trong khi ảnh hưởng đến những nước đang mở mang xin dành vào khi khác.

  

Trọng lượng kinh tế của toàn khối các quốc gia chậm tiến trong Chiến Tranh Lạnh chỉ là 21% GDP toàn cầu, nhưng đến năm 2010 đã nhảy vọt lên 49% và sẽ còn tăng đến 60% vào năm 2030 [1]. Bức Màn Tre được vén ra khi cánh cửa kinh tế tại Đông Âu, Trung và Nam Mỹ, Đông và Nam Á mở rộng để thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các tiến bộ vượt bực về khoa học kỷ thuật thu hẹp thế giới khiến việc liên lạc và giao thương giữa các nước trở nên nhanh chóng và thuận tiện. Kết quả là những đại tập đoàn đa quốc gia Âu-Mỹ-Nhật đã đầu tư ồ ạt sang các nước đang phát triễn để xử dụng nguồn nhân lực giá rẻ, đồng thời khai phá thị trường tiêu thụ mới, trong khi các nước đang phát triễn cãi tổ sâu rộng hệ thống kinh tế và tài chánh nhằm hổ trợ xuất cảng, thu hút công ty nước ngoài và phát triễn tư doanh.

  

Cơn lốc nói trên mang theo 3 tỷ nhân lực từ các nước đang mở mang đến cạnh tranh trực tiếp với gần 1 tỷ công nhân và thợ thuyền ở Tây Phương, cuốn trôi đi hàng trăm triệu công ăn việc làm và tạo áp lực lương bổng khiến mức sống của giới trung lưu tại Âu-Mỹ không hề tăng trưởng trong suốt 30 năm kể từ ngày toàn cầu hóa. Không dừng tại đó, Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Âu và Đông Nam Á còn đào tạo đội ngũ chuyên viên có trình độ đại học và chuyên môn ngày càng cao bắt kịp với tầng lớp trí thức ở những nước công nghiệp. Mặt khác dân chúng ở các nước chậm tiến ồ ạt tìm cơ hội sinh sống ở Tây Phương để được hưởng trợ cấp xã hội, y tế và giáo dục nhưng đồng thời với việc qua lại dễ dàng khiến nhiều người di dân không cố gắng hội nhập vào đất nước mới (thí dụ như về Việt Nam cưới vợ; đàn bà đạo Hồi che mặt). Hậu quả khiến thành phần trung lưu Âu-Mỹ cảm thấy nếp sống của họ bị đe dọa, kinh tế của họ bị thiệt hại. Dù vậy chỉ một số ít trong đó muốn tự cô lập chống toàn cầu hóa, đa số còn lại hiểu rằng đây là một trào lưu không thể cưỡng lại nhưng đòi hỏi nhà nước phải có những biện pháp bảo hộ (protectionism) thích đáng cho công ăn việc làm và trước làn sóng di dân.

  

Xã hội Tây Phương chia thành hai phe thắng và thua cuộc trong cuộc chạy đua toàn cầu hóa. Những ai bắt kịp đà phát triễn thu về hầu hết các lợi lộc kinh tế từ toàn cầu hóa (winners take most) trong khi số còn lại mang tâm trạng bất mãn bị bỏ rơi. Phe chiến thắng gồm các đại tập đoàn xuyên quốc gia, thành phần trí thức ưu tú (elites) có trình độ đại học và chuyên môn cao và những gia đình sống tập trung tại các trung tâm công nghệ và thương mại như New York, San Francisco, London, Sydney, Silicon Valley v.v… Bên thua cuộc là tất cả những người còn lại.

 

Một tầng lớp được ưu đãi (meritocracy) ra đời cổ võ cho nhịp độ gấp rút của toàn cầu hóa trong khi số đông dân chúng nhận thấy chẳng những họ không dự phần mà còn bị thiệt hại trong đó. Giới trung lưu và thợ thuyền đánh mất niềm tin vào truyền thông, báo chí, các định chế nhà nước, những tập đoàn tư bản và thành phần ưu tú (elites) thao túng hệ thống chính trị (rigged system) để phục vụ quyền lợi của riêng họ thay vì cho đa số.  Đây chính là nguyên nhân dẫn đến Brexit và giúp Donald Trump thắng cử cùng với sự trổi dậy của phong trào dân tộc ở Pháp, Đức, Bắc Âu và Đông Âu.

 

 

Khuynh hướng bảo hộ xuất hiện ở cả cánh tả của ông Bernie Sander và bà Elizabeth Warren lẫn cánh hữu của Donald Trump để đáp ứng với nhu cầu của dân chúng. Nhưng cánh hữu của Donald Trump đặt nặng về vấn đề di dân còn cánh tả của ông Sander và bà Warren lại thiên về các biện pháp xã hội để giám sát các tập đoàn tư bản và san bằng khoảng cách giàu nghèo. Quả lắc đồng hồ đã chuyển sang chống lại nhịp độ toàn cầu hóa ồ ạt cho dù Tổng Thống nào sẽ đắc cữ vào năm 2020.

   

***

[1] Economy: Developing countries set to account for nearly 60% of world GDP by 2030, according to new estimates – OECD.org

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.