Hôm nay,  

Âm Vang Sắc Màu trong cõi thơ Yêu Thương Định Phận của Nguyễn Lương Vỵ

03/06/201900:02:00(Xem: 3426)

Lê Lạc Giao

Âm Vang Sắc Màu trong cõi thơ
Yêu Thương Định Phận của Nguyễn Lương Vỵ

  

blank

 “My formula for greatness in a human being is amor fati: that one wants nothing to be different, not forward, not backward, not in all eternity. Not merely bear what is necessary, still less conceal it … but love it.” (Nietzsche - Ecce Homo)
 

Nói đến thơ Nguyễn lương Vỵ trước tiên tôi hình dung khối lượng thơ khổng lồ của anh. Làm thơ từ thở bé và xem thơ như thứ nghiệp dĩ cuộc đời thử hỏi đến tuổi gần bảy mươi, sự nghiệp thơ của Nguyễn lương Vỵ không thể đề cập đến kiểu bài thơ này hoặc tập thơ kia mà phải nói tầm vóc một đời thơ, một gia sản thi ca ấy như thế nào? Và có nói như thế cũng chỉ là gượng ép nói bởi muốn nói như thế, ít ra bạn phải mất nhiều thời gian để đọc hết các tập thơ của anh.

Tôi đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ từ thuở còn là một sinh viên văn khoa năm thứ nhất. Lúc bấy giờ thơ anh đăng trên tạp chí Khởi Hành hoặc Văn. Tôi thích thơ anh ngoài bản thân yêu thơ, tôi còn là người luôn cổ xúy tinh thần văn nghệ của thế hệ trẻ miền Trung (đầu thập niên 1970) mà lúc bấy giờ dường như trăm hoa đua nở. Đến khi tham dự quân sự học đường khóa đầu tiên, tôi gặp anh qua một người bạn học miền Trung. Cũng khá đặc biệt là tôi cùng người bạn đến thăm anh tại bệnh viện Sùng Chính. Nguyễn Lương Vỵ bị thương do xô xát với quân cảnh trong một cuộc biểu tình của sinh viên tại trung tâm huấn luyện Quang Trung. Tôi còn nhớ, anh người nhỏ thó, ốm yếu xanh xao, tuy nhiên hết sức nhiệt tình trong khi nói chuyện. Sau đó tôi có gặp lại anh vài lần với Võ Chân Cửu khi đi uống café. Năm 1972, tôi bị tổng động viên và sau đó không gặp lại anh lần nào nữa. Khi gặp lại Nguyễn Lương Vỵ tại Mỹ năm 2008, đã gần bốn mươi năm trôi qua.  Tuy vật đổi sao dời nhưng điều tôi thích thú nhất là anh vẫn tiếp tục làm thơ và nhiệt tình làm thơ không kém những năm còn học đại học. Tôi được Nguyễn Lương Vỵ tặng thơ mỗi khi một tập thơ mới in ra và cho đến hôm nay tôi đã có sáu tập thơ của anh.

Cuối năm 2017 Nguyễn Lương Vỵ phải mổ tim và cho đến nay sức khỏe chưa được hồi phục hoàn toàn.  Đi thăm anh và thỉnh thoảng ngồi uống café với nhau, chuyện rôm rả nhất bao giờ cũng là thơ và điều làm anh lo lắng nhất là một ngày sức khỏe không cho phép anh làm thơ được nữa. Anh buồn bực nói với tôi, bấy giờ tôi an ủi anh, “nếu thơ là nguồn sống của mình thì ngày nào mình còn hơi thở, mình vẫn cứ làm thơ. Không viết, đánh máy được thì mình ghi trong đầu…” Tháng rồi nhiều bạn văn thơ chúc mừng sinh nhật anh, tôi không có điều kiện viết bài vì quá bận công việc. Hôm nay tôi viết bài này đóng góp chút tri tình bằng hữu về một đời thơ tầm vóc của anh. Tuy nhiên, tôi chỉ đọc tuyển tập Thơ bốn mươi lăm năm (1969-2014) của anh. Quyển sách dày gần bảy trăm trang, tôi đọc chừng mực với một số bài tiêu biểu và viết trong khả năng hiểu biết về thơ hạn hẹp của mình. Tôi mong rằng chút đóng góp này thay thế lời chúc mừng sinh nhật trể và là món quà tinh thần giúp anh sớm bình phục sức khỏe.

*

Nói đến yêu thương định phận (Amor fati) có nghĩa sự vượt qua đau thương và mất mát trong cuộc đời bằng vào tình yêu thương hòa giải những thù hận, mâu thuẫn mà định mệnh mang đến. Nếu đỉnh cao của triết lý là thi ca thì phải chăng tiếng thơ Nguyễn Lương Vỵ biểu hiện một thái độ sống đẹp đẽ, trung thực trên nền bi kịch của một thời kỳ điêu linh lịch sử dân tộc.
 

Yêu Thương định phận (Amor fati) là sức mạnh của ý chí quyết định phương thức tồn tại bản thân mà không hề phản kháng lại bao mâu thuẫn, tốt xấu, lầm lẫn hoặc khôn ngoan của quá khứ. Chỉ một mực yêu thương nồng nhiệt vượt lên trên những gì đã xây đắp thành tập quán truyền thống con người, thì chủ đề Âm Vang Sắc Màu đủ để miêu tả hết một đời thơ Nguyễn Lương Vỵ. Những Phương Ý, Hòa Âm, Huyết Âm, Tinh Âm. . . chỉ là chi tiết (break down) của Âm Vang Sắc Màu mà thôi! Tại sao? Vì thơ NLV chính là âm vang sắc màu cuộc đời mà chính chủ thể khả hữu biểu hiện. Thế nên âm mà không vang hay âm vang không hiện hữu trong không gian mà chỉ là âm vọng tâm hồn. Sắc màu cũng thế, sắc mà không màu vì nó thâu tóm mọi màu sắc của một đời bất hạnh, nếu không nói chính nó miêu tả nỗi đau đớn xâu xé tâm hồn con người trong nghịch cảnh. Điểm đặc biệt là Âm vang Sắc màu một thể thống nhất chứ không tách biệt phạm trù có nghĩa trong Âm vang có Sắc Màu và trong Sắc Màu cũng mang đủ tố chất Âm vang. Tôi xin nhấn mạnh điểm này trong cõi thơ Nguyễn Lương Vỵ cốt tránh hiểu lầm một tập thơ của anh mang tên Âm Vang và Sắc Màu. Âm vang Sắc màu trong cõi thơ Nguyễn Lương Vỵ bắt đầu từ một biến cố bất hạnh cùng cực gia đình: nỗi đau đớn khi chứng kiến cái chết của cha, chú và bao mất mát chia lìa khác tạo nên nỗi bi thương ám ảnh trong suốt hành trình cuộc đời. 
 

Nguyễn Lương Vỵ (NLV) thoát ly gia đình rất sớm. Hoàn cảnh gia đình đẩy anh ra ngoài xã hội để tự lực mưu sinh. Và dù phải đấu tranh khốn khó cùng cực ngoài xã hội không dập tắt tâm hồn thi ca NLV. Thử thách trong cuộc sống là chất liệu tuyệt hảo biểu hiện qua nhận thức âm vang màu sắc trong cảm hứng. Bài thơ Thanh Ca gồm 345 chữ viết theo thể văn xuôi (prose) như một tuyên ngôn:
 

“Cám ơn mộng mị cám ơn đời thường cho ta giàu tưởng tượng cho ta giàu thơ ca từ buổi đầu xanh chưa ráo máu đến bây giờ vẫn còn mang theo muôn triệu mặt trời lung linh giữa trần gian tràn sắc nắng bay qua ngực rộng bay qua mãi mãi bay qua đến bao giờ chẳng biết nhưng ta biết thơ ca là chiếc lá diệu kỳ là chiếc hôn diệu vợi của nòi tình muôn triệu năm . . . . . . . ta thèm đi suốt xứ thèm phố phường rừng núi ruộng đồng thèm ao suối sông hồ biển nhỏ biển to thèm niềm vui thèm nỗi buồn thèm em thèm tất cả xương da mộng mị đời thường cho thi ca càng bổ khỏe phương phi vì nhau mà sống vì nhau mà chết nên chẳng dễ gì ta chép hết khúc Thanh Ca...”
 

Tên bài thơ phản ánh đậm nét tình yêu thương cuộc sống, cuộc đời vốn tràn đầy đau thương phẫn hận này của anh. Cho nên nếu có tiếng gầm thét cuồng nộ của âm vang hay màu sắc chói chan của tức giận cũng chỉ là lý do sản sinh một tình yêu thương vượt qua số mệnh (Amor Fati) nặng tính triết lý bi kịch.
 

Thơ Nguyễn Lương Vỵ biểu hiện thứ Tri thức hoan say (Le Gai Savoir) với cảm hứng như dồn dập bất tận trong đời thường dù nghịch cảnh, nội dung bao hàm sự khoan thứ dung dị xuất phát từ sự phủ định mang tính nhân bản trong trong triết lý Nietzsche[1] về con người (Ecce Homo).

Bên cạnh đó thơ Nguyễn Lương Vỵ còn diễn tả bao nỗi trớ trêu bi kịch phản ánh bộ mặt thật xã hội dưới lăng kính nhận thức của tâm hồn.

Ba bài thơ đầu tiên viết vào năm 1969 lúc Nguyễn Lương Vỵ 16 tuổi có thể giới thiệu Mở đầu cho một đời làm thơ. Âm Sắc biểu hiện rõ nét trong “Nửa đêm thức dậy nhìn mây trắng”:  
 

Lung linh hồn quê cũ

Mây trắng phủ khắp trời

Nhớ trăng khô hết máu

Muôn trùng dặm núi ơi!!!

 

Không thời gian đậm nét trong bốn câu mà nỗi oan khiên số mệnh biểu hiện. Đây là tiếng kêu gào một thời nào đó đã qua, đã xóa nhòa từ một ký ức cùng khốn đồng thời khát vọng được trở về một quê nhà xa xăm bình yên đã mất.  Hai bài “Cảm Ứng”“Chiều Câm” cho thấy tính tượng trưng, từ thực tại phổ qua một cảm xúc và biến cố quá khứ lại càng hàm chứa Âm Vang Sắc Màu nội tại hơn nữa:

 

Cảm Ứng

 

Biển đắp một tòa sương

Lạnh đôi bờ vú nhỏ

Nàng tắm trong tịch dương

Núi gầm lên khóc nhớ

 

Chiều Câm

 

Mẹ băng huyết giữa đồng

Đứa em chưa kịp tượng

Trôi tuốt ngoài thinh không

Chập chờn con bướm lượn

 

HÌnh ảnh biểu tượng “Núi gầm lên khóc nhớ” hay ba câu thơ đầu của bài “Chiều Câm” cho thấy một bất lực thực tại. Thực ra Âm vang Sắc màu trở thành chủ đề chính cuộc đời anh bởi sự chắt lọc những đối kháng bi đát mà tâm tư tình cảm nhận được từ cuộc đời thường. Tinh âm, Huyết âm, Hòa âm âm, Phương ý … chính là những chắt lọc đối kháng nhận thức phổ trên những con chữ. Trong bao chắt lọc này có đủ đau thương khốn cùng nhưng cũng không thiếu chất lãng mạn trữ tình rất mực. Bài thơ “Tinh âm Thu” viết năm 1973 mở đầu:

 

Bạo tàn thu

Âm u mồ thu vắng

Nhập hồn trăng đá trắng lạnh lùng thu

Hờn tử biệt gió đã về bên xứ

Máu oan linh giãy giụa nát rừng thu

. . .

 

Và kết luận tinh âm thu chỉ là nỗi quạnh hiu khi nghe tiếng thu chan hòa:

 

Ôi bạt mạng phút linh cầu gieo hạt

Âm sáng lừng thơm ngát dậy rừng thu

 

Thâm tử chan hòa thu

Mây rừng thu cô tịch

Trời bâng khuâng ôm chiếc bóng lạc loài . . .

 

Đến “Tinh âm Hoa” đặc biệt hơn nữa ý niệm chắt lọc từ hoa là một hoài cảm tương tác nhận thức từ hồn hoa cho đến trời hoa của một thực tại không bến bờ.  Nhà thơ xử dụng hai chữ Lịch kiếp, Cổ lâu mang ý nghĩa thời gian và không gian trong hoài cổ. Nó khơi gợi niềm luyến tiếc lại vừa cảm thương thân phận:

 

Chào kẻ lạ giữa đời quen lịch kiếp

Bước chân qua chiều khép lạnh hồn hoa

Trời xuôi ngược những hình ma không hẹn

Ghé về thăm heo hút cõi lòng ta

 

Khơi nhẹ âm hồn hoa

Đưa nắng tà qua tóc

Cổ lâu ơi đừng khóc nữa vì người

Tay vẫy nhẹ xa vời hương sắc cũ

Cổ lâu ơi xanh ngát nụ hoa câm

. . .

 

Đến Âm thanh Sắc màu trong bài thơ “Màu luyến ái”:

 

Trái mận cuối mùa không nở hái

Sợ cuống bơ vơ sợ lá đau

Ta muốn nhìn lâu màu luyến ái

Màu tim rung động đến ngàn sau…

 

Và “Màu ngây dại” hết sức tiêu biểu cho âm không thinh (vang), màu không sắc:

 

Ước gì trở lại bên vườn cũ

Nghe chim chèo bẻo hót thinh không

Màu ngây dại bông trang vừa nhú

Màu mây trôi mát rượi cả lòng…

 

Bài thơ “Một thoáng Đà Nẵng” mô tả một phần đoạn đời xa nhà của mình khá sinh động và cảm động. Ngồi trên bờ biển gẫm một quá khứ từng có một tuổi thơ:

. . .

Trở về ngồi lặng yên với biển

Bãi cát còn sót lại những giợn sóng

Đã rút đi xa

Như quá khứ

Những sợi tóc vàng cháy

Vắt ngang qua ánh mặt trời

Vắt ngang qua lưng núi

Mười lăm năm

Ngày trở về không hẹn trước

Âm thầm như bóng mây

. . .

Tuổi thơ của mình

Có một chiếc đinh

Rung rinh giữa trán

. . .

Tuổi thơ của mình

Có một vết cứa

Lặng im rách tim

. . .

 

Vết thương nhân loại hay vết bầm thế giới là điển hình bi kịch con người mà “Âm Vang Sắc Màu” của nó khiến tác giả cười khóc trên mỗi bước chân trong hành trình cuộc đời. Bài thơ chỉ hai khổ mười câu diễn tả khá khốc liệt:

 

. . . . . .

Bước xa viễn tượng hao gầy

Bước gần hiện tại vẫn đầy bão giông

Vết thương nhân loại đèo bòng

Vết bầm thế giới những vòng quay nhanh

Khóc hờ chén rượu tàn canh

Cười khan cạn hết bài hành Phương Đông

. . . . . .

 

Ngàn năm sầu dựng trường thành

Ta xin cúi lạy âm thanh sắc màu

Điệp trùng thế kỷ trôi mau

Thương câu lục bát mà đau lục bình

Quê nhà Hoa Nắng quyên sinh

Xứ người Trăng Huyết run mình chết theo

. . . . . .

Với hai câu kết chứa chan hi vọng:

Vẫn còn những bước thương mong

Còn vang ngấn tích ở trong tim người…

 

Những bài thơ Nguyễn Lương Vỵ viết về quá khứ còn phản ánh một thời điêu linh lửa khói đất nước. Những hình ành bức xúc không chỉ mô tả bản thân mình mà hình như của cả bao thế hệ nạn nhân cuộc chiến nồi da xáo thịt:

Tuổi thơ cháy theo nền sân gạch

Bóng tre khô lách tách chiều hôm

. . . . . .

Tuổi thơ cháy theo những con đường

Những hố bom hố mắt

 

Nhớ mắt ai đứng tròng lạnh ngắt

Thây ma còn nghiến răng

Gió thâm tình vuốt mặt

Đời mồ côi bao lần?!

 

Tuy nhiên, không hề có hờn căm, thù hận trong thơ anh. Ngược lại thiên nhiên trời đất khiến thơ như một dòng chảy tâm thức từ cao xuống thấp, từ chật hẹp đến mênh mông vô hạn, đẫm tính khoan dung tha thứ bởi thi ca kia vốn dung nạp tình thương:

Bởi quê hương lồng lộng Thơ Ca

Đã nâng gót đời ta nhẹ bước

Đã cho ta hình hài sau trước

Mỗi chiều hôm sấm dậy trong hồn

 

Như đi từ thực tại đến tận bến bờ mộng ảo:

 

Một vườn chim hót sớm mai

Lá lay niềm nhớ, mùa sai hẹn rồi

Tỉnh ra chưa hết bồi hồi

Mộng tràn líu ríu, phương trời líu lo…

 

Thơ Nguyễn Lương Vỵ đa dạng, anh dùng đủ mọi thể loại cho nguồn cảm hứng. Và những thể loại xưa cũ anh xử dụng rất nhuần nhuyễn. Tám bài thơ Đêm được diễn tả qua tứ tuyệt song thất lục bát thật độc đáo:

 

Đêm Dân Ca

 

Đêm dân ca la đà lục trúc

Thương tiếng buồn sương đục ngàn năm

Mịt mờ trăng – Mắt lá răm

Ta nhìn em nhớ xa xăm nẻo về…

 

Đêm độc huyền

Bắt chước tiếng gọi đò năm cũ

Một giây rung rừng rú quê nhà

Một dây rung, rúng lòng ta

Một đời chìm, mấy đời xa hỡi người…

 

Đêm khát vọng

Dẫu có được ngàn năm trước mặt

Thì Thơ ơi đã chắc chi đâu

Vèo bay chiếc lá xanh màu

Vèo bay khúc hát phượng cầu long lanh…

 

Dòng sông thơ NLV chính là dòng sông đời tuôn chảy trên dòng thời gian.  Dòng sông thơ hay dòng sông đời này cũng chỉ là biểu hiện tâm thức qua âm vang sắc màu một định mệnh. Thơ Nguyễn Lương Vỵ tuôn chảy từ một cội nguồn đậm nét bi kịch. Nỗi cô đơn, cô tịch chập chùng trong từng bài thơ dù ngắn hay dài của anh. Không những thế, nỗi thống khổ xen kẻ trên những con chữ là biểu tượng một thứ trầm luân thường trực tác động lên con người phải chịu đựng một phận số. Do đó trong từng bài thơ anh hàm chứa chấp nhận thực tại mang căn tính “can đảm (the courage) như hành động con người, như thẩm định giá trị, là một khái niệm có tính luân lý. Tính can đảm, vốn phổ quát và thiết yếu tự xác định sự tồn tại của một con người, là một khái niệm hữu thể.[2]

 

Một trăm bài ngũ ngôn tứ tuyệt cô đọng âm thanh sắc màu của dòng chảy tâm thức trong hai năm (1997-1999) lấy tên Nắng Không Màu đẫm nét hỉ nộ bi ai:

 

Tặng

Tặng người bài thơ mới

Rất đẹp, rất như xưa

Lệ hân hoan nguồn cội

Giọt giọt thấm trăng mùa

 

Nhật Ký 1

Tìm một câu thơ tím

Nắn nót bóng ngày qua

Chữ thương đau ngất lịm

Chữ tri tình xót xa

 

Cuối thu

Gió lay lắt mười phương

Vườn xưa đau dấu nguyệt

Những linh hồn trúc biếc

Đã bay về kêu sương

 

Bài thơ Xa Xôi là một tiếng thở than hay hoài vọng giữa đất trời:

 

Xa xôi

Thơ khắc trên ngực đá

Nghe máu bầm trên cao

Xa xôi hay máu đã

Đất với trời thâm giao

 

Đến âm thanh đàn nguyệt, tiếng đàn vọng trong lòng dưới bầu trời sao, để rồi chờ nhau suốt một mùa thương nhớ:

 

Cầm nguyệt

Trăng tan đêm cũng tàn

Đàn đa mang nhan sắc

Nhương sao trời phương Bắc

Nhớ một trời phương Nam

 

Động lòng

Giọt mực năm xưa đâu

Màu đêm thâu ửng nắng

Tóc trắng khóc chờ nhau

Rụng rời mùa thơ vắng

 

Không bài thơ nào thiếu âm vang màu sắc dù đa phần những thanh không âm và những sắc không màu là tiếng kêu của một cõi lòng buốt lạnh tình người, tình đời, tình tri kỷ trong cái cô quạnh đất trời. Thơ NLV là lời độc thoại của chính tâm thức mình trước bao la vô tận của môi trường thiên nhiên. Anh nói với một ai thật xa, có khi đã biến mất trên cõi đời, hay với nhiều con người vô hình trước mặt mà họ thực sự tồn tại trong anh như một thứ bóng hình, đồ vật kỷ niệm, âm vọng dấu yêu …

 

Vọng II

Những bóng đò rợp nắng

Những trời thơ vang lừng

Ngàn sông bay nở trắng

Ta khóc như chưa từng

 

Vọng III

Gọi mãi trong bao la

Những hồn ma phơ phất

Những bóng quế không nhà

Lạnh rồi đêm chiêu hoa

 

Tâp thơ Phương Ý với ba bài mở đầu Vỉa Hè như giới thiệu một đoạn đường mới sắp qua và cảm thán cho một thời vừa mất:

 

Vỉa hè I

Đêm lãng du thương ngày cỏ mục

Ta nhìn ta trong đục đầy vơi

Gần năm mươi tuổi rong chơi

Thiết ta gần đất xa trời xa em

 

Vỉa hè II

Thương một giọt nắng tà bay vụt

Trút linh hồn côi cút ngã ba

Giật mình xanh ngắt xương da

Bao nhiêu nhan sắc Thơ Ca đã chìm

 

Phương Ý là nơi chốn hoài cảm, là mộng của thực, là niềm hạnh phúc ngẫu tượng của linh hồn cô đơn độc hành mỏi mệt tìm thấy một trạm dừng chân, một bếp nhà ấm áp trên con đường vạn dặm. Bài lục bát “Áo Đỏ” là thứ ngẫu tượng lạ lùng tuyệt diệu ấy:

 

Lạ lùng áo đỏ ven sông

Sắc mây năm cũ tiếng cồng mùa xa

Cảm thương những lũy tre già

Giấc mơ vườn tược quê nhà lặng thinh

 

Áo bay hay máu tượng hình

Mùa thơ hồng hạc em sinh ta rồi

Sông đi núi đứng núi ngồi

Ta đi mang hết đất trời nhớ em

 

Hai khổ thơ sau sắc màu âm thanh vọng về của mùa ký ức:

 

Lạ lùng để lạ lùng thêm

Thời gian điếc nắng bên thềm ca dao

Em ơi tiền kiếp xa nào

Người đi kẻ ở muối trao lộn gừng

 

Bây giờ áo đỏ rưng rưng

Sắc mây vẫn vậy ngập ngừng cầm tay

Tiếng cồng rờm rợp trăng bay

Lũy tre xưa lũy tre nay tận tình…

 

Tập thơ Phương Ý với hai mươi bảy bài thơ mang nội dung hoài cảm từ thế giới vật chất đến lĩnh vực tinh thần hay cả hai phạm trù trộn lẫn vào nhau:

 

Dự cảm I

. . . . . .

Phương trời đó có ai về mỗi lúc

Bến bờ kia nườm nượp bóng sinh linh

Thơ hối hả bởi nhiều khi bất lực

Bởi oan khiên đâu phải chỉ riêng mình

 

Có khi một nỗi buồn xé ruột

Nhớ gì đâu vầng trán ướt mưa ngâu

Mùa dự cảm cũng đành không níu được

Một lời câm hóa đá đến ngàn sau

 

Phố cổ Hội An

Phố bên sông, sông bên phố

Tĩnh vật ngồi, tĩnh vật nằm

Ngói cũ thì thầm viễn xứ

Ta về, ngó sững trăm năm

. . . . . .

Phố cổ chuông trầm như nhạc

Trầm mơ như những mái nhà

Nằm nghe trăng mùa lưu lạc

Rêu phong u uẩn thơ ca…

 

Nguyễn Lương Vỵ làm thơ như một nhu cầu sinh tồn và đậm nét tồn sinh (nói theo kiểu Bùi Giáng) thế nên cảm hứng là nỗi hoan lạc cùng tột như đã đề cập kiểu tri thức hoan say (The Gay Science) của Nietzsche. Sang “Hòa âm âm”, chữ âm anh xử dụng thật tuyệt diệu. Âm ban đầu chính là âm vang của cảm hứng nhưng vào trong ngữ cảnh, ngữ điệu Âm trở thành đối tượng Âm Dương. Và sắc lúc này càng nổi bật hình ảnh màu sắc của âm thanh và của người đàn bà cùng tất cả những phần âm còn lại của xúc cảm giới tính.

 

Độc tấu II

. . . . . .

Ta nhún một cung trầm

Âm hao xanh đáy vực

Âm mao xanh vĩ cầm

Âm em bay sáng rực

 

Độc tấu III

Thơ bắt đầu rụng xuống

Là kinh kỳ réo lên

Một cung thương hợp xướng

Một bè cao gọi tên

 

Gọi tên em là Mẹ

Mẹ đẻ ra ngàn năm

Tử cung âm sấm chẻ

Sáng lóa đại hồ cầm

. . . . .

 

Thơ lúc bấy giờ cốt tủy xương da phơi bày. Đấy là bi kịch của thơ nhưng cũng là bản chất của thi ca nếu không là bài hòa âm bất tuyệt của sinh mệnh chính mình. Ở Hòa âm không dừng lại mà còn tiếp tục âm, âm âm… bài thơ “Thơ về thơ III” đã diễn tả không sót một cõi bi ca:

 

Chữ tươi mài tinh huyết

Bông tuyết đỏ trong hồn

Bông tuyết trắng đầu non

Mưa truồng phơi nắng lạ

 

Sắc âm quyện vào nhau miêu tả nỗi xót xa hoan lạc từ cảm hứng vực lên trong vô thức, nhưng vẫn tiếp tục đắm chìm trong cô liêu và thơ một lần nữa phản ánh bản chất vô thường của cõi người ta:

 

Thèm em thèm tất cả

Hương kinh nguyệt đất trời

Thu Không rụng một lời

Một đời ta hứng trọn

 

Thương em đau cỏ mọn

Hạt bụi xót hiên ngoài

Hạt nát tan chiều phai

Thơ rền trên vách núi

 

Một câu thơ chết đuối

Vớt lên trong bao la

Nghe lạnh hết xương da

Bưng mặt không dám hỏi…

 

Có lẽ bài thơ “Chân Dung” nhà thơ NLV nói lên cảm nghĩ lý do mà trong cảm hứng tại sao âm, tinh, huyết trở thành ẩn ngữ trong thơ anh. Đầu cổ độ (đầu bến cũ) nhưng đuôi tân thanh (đuôi tiếng mới) cũng đã là ẩn ngữ bài thơ:

 

. . . . . .

Kỳ bí nhất là khi con chữ

Kêu thất thanh không biết về đâu

Đầu cổ độ cố nhân lùa ẩn ngữ

Đuôi tân thanh rụng trận gió sơ đầu

 

Đâu biết được ta vẫn ngồi vẽ bóng

Bóng đùa dai em giỡn mặt ta hoài

Chân dung ảo thơ rền thạch động

Nước khua rằm rụng xuống hai vai

. . . . . .

 

Trong bài thơ bảy chữ “Mận”, NLV trở về nét lãng mạn nguyên sơ của dòng thơ cổ điển, tuy nhiên âm sắc lúc nào cũng nổi bật:

 

. . . . . .

Mận chín bên trời một sắc mây

Đất khô cây hạn chắc em gầy

Còn ta lưu lạc, say vì nhớ

Thơ chép câu thừa – Chữ đứng ngây

 

Chữ đứng im ta chìm theo âm

Nắng khuya ràn rụa phím dương cầm

Phố khuya bên ấy em còn thức

Còn mận em hồng thơm trước sân?!

 

Âm trải suốt theo từng nơi chốn nhà thơ NLV đi qua. Đi qua đây cũng có nghĩa đến và trở về. Trên cuộc hành trình năm tháng này, mỗi lần trở về tác giả xem như một vòng tròn mang theo thứ tự thời gian (chronological) thế nên bài thơ Sử Lịch diễn tả tâm trạng ấy trên từng con chữ: Sử Lịch chính là nỗi đau của một tấm lòng mỗi lần thấy lại quê nhà gợi nhớ những bi đát oan khuất một thời. Màu Huyết Hoa tức hoa máu nhắc lại một thời khắc không quên, hay nổi ám ảnh khôn nguôi trong lòng tác giả dù đôi lúc anh cho là mộng:

 

. . . . . .

Gió ngu ngơ nào biết Huyết Hoa

Đền miếu cũ ngủ vùi thương nhớ

Màu sử lịch Huyết Hoa vừa nở

Nắng lừng hương nơi chốn ta về

 

Chốn ta về là chốn Nhà Quê

Gắp vài đũa lùa theo nước mắt

Muối vẫn mặn âm vang mùa gặt

Gừng vẫn cay thanh sắc Ca Dao

 

Chốn ta về lục trúc chiêm bao

Hai mắt nhắm canh chừng tiếng động

Cỏ vẫn hát giọt ngần sương mỏng

Gọi ngàn thâu đau đáu bước chân

 

Trong những năm 2002-2006 bài thơ nào NLV sáng tác cũng đều có chữ Âm. Âm lúc này nặng nhạc tính như Huyền âm, Dương cầm thu, Vĩ cầm thu, Vĩ thanh hoa, Tuyệt bi âm, Hòa âm âm âm âm… có nghĩa anh muốn diễn tả cảm hứng bản thân trên âm thanh hay cầm âm lưu trong hồn anh bao lưu luyến tình yêu quá khứ. Bài thơ “Đôi Mắt Vĩ Cầm Thu” điển hình cho âm thanh gợi một bóng hình khá lãng mạn:

 

Đất khách ngợ ngàng đôi mắt

Vĩ Cầm Thu thầm nhắc lá đau Thu

Ta không lãng mạn vì đôi mắt

Vì tiếng vang kia! Lá Vĩ Cầm Thu

. . . . . .

Em khóc tím than. Chiều phai không hết

Bầm tím bóng ta cho em kết tím hoa

Chiều phai. Chiều vẫn phai không hết

Ta chết tím đàn. Lá chết tím hoa

 

Hãy gom hết biệt ly trong đôi mắt

Hãy sưởi dùm ta cơn lạnh tím đàn

Và đừng nhắc biệt ly trong đôi mắt

Vĩ Cầm Thu xanh máu lá. Tím đàn…

 

Bài thơ trên âm sắc có đủ, từ tượng thanh cho đến tượng hình và không thiếu tao ngộ lẫn biệt ly. Những tập thơ về sau nội dung mang biến tấu của Âm. Chữ Âm được đẩy đến cực đại ý nghĩa qua xử dụng và đôi khi biến thành sản phẩm của vô thức. Như có đề cập ở trên, âm sắc là chủ đề một đời thơ Nguyễn Lương Vỵ nhưng tùy theo nội dung tập thơ mà chữ Âm biến thành đa nghĩa. Cường độ xử dụng âm cũng theo thứ tự từ xúc cảm tích cực đến tiêu cực, từ âm thanh êm đềm diệu vợi của dương, vỹ cầm cho đến tiếng kêu, thét, gầm rú phẫn nộ của xúc cảm mang tính vô thức. Nhưng tựu chung đều xuất phát từ nỗi cô đơn thống khổ cùng cực. Nỗi cô đơn tràn ngập trên các trang thơ NLV.  Âm chính là tiếng vọng từ một thế giới nội tâm chất chứa những mâu thuẫn xung đột giữa các sự kiện, biến cố quá khứ; theo thời gian chồng chất trong vô thức tạo điều kiện chỗi dậy, cộng hưởng thông qua hồi ức hay từ những chuyến ra đi hoặc trở về của nhà thơ. Bài Tuyệt Bi âm là nghe âm Hoa, âm Đá, âm Truông đèo … để rồi buốt lạnh đời:

 

Vuốt mắt sắc tím hát

Nghe âm hoa trong veo

Nghe âm đá cuốn theo

Nghe truông đèo gieo hạt

. . . . .

Buốt buốt buốt buốt buốt

Nghe mưa âm âm âm

Nghe hết những đời câm

Nghe trầm mình gió rút

 

Đến tập Huyết âm, Âm bấy giờ trở thành cuồng âm của vô thức.  Tuy nhiên, trong đề tựa Âm Vọng Huyết Âm bốn câu thơ: Đêm trăng không tới ai/Phai hết bài thơ cũ/Bọt nước gió quên cài/Hồn xanh ươm một nụ lại đưa chúng ta đến một bến bờ âm sắc khác: một thuở hoa niên, một thời hoa mộng. Dù đớn đau, phiền muộn cũng còn một màu xanh tương lai. Đấy là Âm của thiết tha hi vọng. Bốn câu thơ trên viết 1970 mở đầu cho tập Huyết Âm mà nội dung của nó có thể khiến cho những người muốn tìm âm vang của thơ chỉ thấy sự cuồng nộ tâm thức. Anh tự nhận mình là Ma, con ma Ta:

 

. . . . . .

Róc!!!

Bóng ngày chìm trong bóng đêm.

Đêm rất huyền.

Thơ xanh um.

Con Chữ. con Âm rầm rì sinh linh.

Bóng Ta chìm trong bóng Ma.

 

Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ giải thích:

 

. . . . . .

Bóng Ta chìm trong bóng Ma.

Bóng Ma chìm trong bóng Ta.

Huyết Âm?

Âm vang của máu và lệ.

Máu?

Ngày chìm trong đêm.

Lệ?

Đêm chìm trong ngày.

Biến và Dịch đến vô cùng

Âm vọng Huyết Âm?

Như dự cảm:

. . . . . .

Tập thơ Huyết Âm là sự trộn lẫn giữa hư và thực mà dười lăng kính Phân tâm[3] (Psychoanalysis) những bài thơ là sự trỗi dậy các sự kiện tâm lý quá khứ cho đến hiện tại, chồng chất trong vô thức mà tùy theo hoàn cảnh thực tại cảm hứng vực dậy trở thành thơ. Theo phân tích chuyên môn những bài thơ dạng này khó hiểu, khó giải thích nhưng rất độc đáo, phi thường. Do đó 81 bài thơ trong tập Huyết Âm được trích dẫn một số sau đây theo cảm quan của riêng tôi, xin phép trước tác giả để có điều gì tôi giải thích quá đáng hoặc sai lệch không đúng ý bài thơ mong anh bỏ qua cho.

 

Thơ trong tập Huyết Âm, thuần âm theo nghĩa âm dương, và mượn đối tượng người phụ nữ qui chiếu hành vi. Bài 37: Khởi kỳ thủy là Âm?! Càng nói rõ vai trò người nữ trong nhiều bài thơ trong tập Huyết âm. Như tác giả giới thiệu Huyết âmâm vang của máu và lệ thì bài đầu tiên hành động Róc có nghĩa là dùng dao chẻ, xẻ vỏ (róc mía): Róc Huyết âm/đá khóc/Xanh/Tuyệt đối… Trong liên tưởng tôi nhớ đến Lệ đá xanh, một câu thơ của Thanh tâm Tuyền (Lệ là những viên đá xanh) nhưng thơ của NLV đây lại là âm của máu lệ, và bài thơ bảo rằng khi róc âm thanh của máu lệ tức của huyết âm/xanh tuyệt đối bởi đá phải khóc… Xanh biến thành động từ: làm thành màu xanh, biến ra màu xanh và trong bài thơ Xanh Tuyệt đối. Như thế màu đỏ của máu (lệ) trở thành xanh. Đây chính Âm vang Sắc màu đúng nghĩa nhất.

 

Bài thơ 3 và 4 là dụ ngôn về giới tính để chuyển về cấu trúc sinh lý hay chu kỳ sinh tồn con người: Gái rộn giòng trăng/Cuồng huyết hương Mười Sáu/Cỏ thi/Băng!!! Huyết âm mao/Sấm chẻ/Xé/Thiên cao…

 

5.

Mẹ huyền vi

Rung huyết

Đón tinh cha

   

A Gái huyền

Đẻ đái

Cái Người-Ma

 

Tác giả dùng nhiều ẩn ngữ, dụ ngôn phơi bày một ám ảnh trong chiếc khung vô thức (unconscious). Đấy có thể bản năng tính dục (libido) theo cấu trúc tâm sinh lý từ bản thể con người theo quan điểm Freud. Tuy nhiên thi ca là thứ lăng kính mà bản năng trổi dậy khúc xạ biến thành ẩn ngữ dụ ngôn khiến những cảm hứng bất chợt như bắt gặp tiền kiếp của mình. Lúc này bài thơ trở thành sản phẩm của cảm xúc tôn giáo mà cá nhân nhà thơ, theo quan điểm của nhà phân tâm học C. Jung, hình thành nhân cách từ một tập thể vô thức (collective unconscious) áp dụng theo chiều dài của cuộc chiến tranh suốt thời thanh niên. Và hệ luận chiến tranh là bi kịch nhân loại, ở đây thơ phiên bản một tâm thức điêu tàn mạt vận, nạn nhân chính thời đại mình qua vô thức:

 

27.

Ấm ớ cửa mình Thái Cực

U hoài hai mép Lưỡng Nghi

Mắt trừng hứng huyết âm thi…

 

Đến cơn điên trong lưu đày:

 

47.

Nhiều khi

Điên hơn một cơn điên

Điên hơn một số phận

Người bạn khuấy ly cà phê đen và nói

Biển hôm nay bên ấy

Rất xanh

-Ừ! Đã vậy

. . . . . .

 

Rất nhiều khi

Điên hơn một cơn điên

Điên hơn một số phận

Ly cà phê đen nhấn chìm ta trong bóng đêm

Khát

Mịt mùng

Biển rất vắng và rất ốm

Bóng ta đen trong đen

. . . . . .  

 

Những khổ thơ ba chữ kể lể là nỗi bế tắc thực tại như một trò đùa thời gian: … Bây giờ/Không ngủ nữa/Huyết âm hứa/Sẽ cho xem/Một nhành đêm/Đang đứng ngọ/Một nhánh gió/Đang đứng trưa/Một cơn mưa/Đang khúc khích/Một cú hích/Đang động phòng/Một chốc mòng/Đang động cỡn/Một cái trớn/Đang giỡn chơi/Một cái nơi/Vô sở trụ…

 

Bài 21 có bốn khổ thơ bảy chữ. Hai khổ thở đầu diễn tả Nghe và Thấy: Uống máu lệ nghe tinh âm và uống máu lệ thấy tiếng hót. Thực ra thấy tiếng hót chính là nghe hót, nhưng thấy trong nghe tỏ cho thấy nghe âm vang thấy sắc màu. Khổ thơ thứ ba diễn tả thái độ uống máu lệ qua nghe và thấy. Khổ thơ cuối đúc kết lý do uống máu lệ nghe thấy chỉ là một vết thương tiền kiếp không bao giờ xóa nhòa:

 

21.

Độc ẩm huyết âm nghe tinh âm

Mắt nguyên âm bừng ánh lửa câm

Đó đây có ai vừa thở hắt

Vừa bay theo sông núi rì rầm

 

Độc ẩm huyết âm thấy tiếng hót

Tiếng ca hoàng yến rót vơi đầy

Vũ trụ thì xanh và … lặng ngắt

Còn ta rêu bám tiếng cười … ngây!!!

 

Độc ẩm huyết âm lưng thẳng đứng

Câu thơ hứng chí múa xanh xương

Cốt tủy hòa thanh bay tám hướng

Mười phương bướm gáy rách tinh sương

 

(Vết thương ta ủ trong tiền kiếp

Mỗi chữ oan khiên núi hóa ngồi

Giọt huyết bơ vơ lơ láo nhịp

Lầm bầm cho đỡ nhớ

Vậy thôi!!!)

 

Bài thơ 38 phản ánh mối tương quan Mẹ và Huyết âm chan chứa ngậm ngùi thân phận. Thấy Mẹ, gặp Mẹ là thấy hết một kiếp người mà qua huyết âm là qua máu lệ để thấy khúc đoạn trường:

 

Con về bên Mẹ nghe huyết âm

Nghe tủy xương réo rắt mưa dầm

Có lịch kiếp chảy xiết huyễn ảo

Cho tuyệt cùng âm âm điếc thâm

 

Con về bên Mẹ thấy tuyết đỏ

Thấy tủy xương trong veo vút gió

Có trầm luân chảy theo tiếng chuông

Cho hồn cháy xanh um cổ độ

. . . . . .

Con về bên Mẹ nghe tà dương

Nghe tiếng kêu chiêm chiếp đoạn trường

Đất trời tuyệt tự, thơ tuyệt mệnh

Ươm nụ huyết âm dầm buốt hương

. . . . . .

 

Năm 2008, nhiều bài thơ Tinh Âm ra đời. Tinh âm là đỉnh cao của huyết âm về chữ và nghĩa. Có thể nói ba bài Tinh âm đầu tiên đủ cho thấy ý nghĩa của Tinh âm:

 

I.

Nghĩa đời trong lá khô

Ý đời trong mầm biếc…

 

II.

Cồi máu phơi tiếng hú

Óc phơi ngọn nến mù…

 

III.

Muôn chiều. Chiều hết đời

Muôn đời. Đời phơi thây…

 

Nhóm thơ bốn chữ Ảo hóaThi tụng diễn tả đặc trưng nỗi chia lìa đoạn tuyệt qua cái chết mang âm hưởng của một bài kinh cầu nguyện. Tuy ý nghĩa từng câu thơ cũng là nỗi lòng ưu tư đặc biệt của tác giả đối với người đã chết nhưng cũng gói trọn âm điệu cảm thán của cuộc vô thường:

 

Chỉ là ảo hóa

Bên này bên kia

Bên nào cũng vậy

Hai chữ chia lìa

 

Chúng ta: Hạt bụi

Dấu chấm sinh linh

Dấu hỏi vô minh

Dấu huyền vô tận

. . . . . .

 

Và bài thơ Ngũ Ngôn Mồ Hư Không:

 

Chiếc lá khô ảo diệu

Sắc thu vàng ai điếu

Một bài ca lãng quên

Nghĩa là nhớ vang rền

Sắc thu câm rạng rỡ

Bây giờ là vạn thuở

. . . . . .

 

Trong “Lục Huyền Âm Tưởng Nhớ Nguyễn Trãi” có chín bài thơ sáu chữ. Khổ thơ đầu của cả chín bài đều cảm thán vụ án oan khuất của Nguyễn Trãi:

 

1.

Nghẹn ngào âm vọng Quốc Âm

Nghe buốt vai tiếng cổ cầm

Bụi đỏ bay rợp tiếng hát

Ngân một trời lá nhớ mầm

3.

Nghẹn ngào âm vọng Quốc Âm

Trời hoài thai một vết bầm

Đất thương tâm cơn nồng huyết

Gươm khua ma nghiệt rì rầm

 

Thơ Nguyễn Lương Vỵ

như hơi thở khi nhẹ nhàng, lúc nặng nề, đôi khi cười cợt, lắm lúc khoắc khoải, âu lo… trôi theo cảm xúc nhưng lại tự nhiên, không gò ép khuôn phép của thi pháp cổ điển. Cách xử dụng chữ cùng tinh thần biểu hiện cảm xúc trên con chữ tự do phóng khoáng. Tuy nhiên thơ anh không quá cấp tiến theo phong trào như trào lưu hậu hiện đại của một số nhà thơ cải cách hôm nay. Trong “Bốn Câu Thất Huyền Âm” là kiểu thơ thất ngôn tứ tuyệt. Ý nghĩa bài thơ gói trọn trong bốn câu. Sức cô đọng cao, tầm quảng diễn rộng mới làm người thưởng ngoạn không thấy hụt hẫng, hoặc ấm ức trong lòng. Bốn mươi chín bài thơ “Bốn Câu Thất Huyền Âm” là một trường ca vì 49 bài là 49 khổ thơ của một bài thơ dài, ý nghĩa liên kết với nhau. Một số bài câu cuối khổ trên nối tiếp câu đầu khổ thơ kế. Bài trường ca “Bốn Câu Thất Huyền Âm” là một dòng cảm thán vừa mang tính hoài niệm khi nhớ thương, khi kể lể, khi mong chờ. Nói chung bài thơ mang một âm sắc khá phổ quát, là một chủ đề suốt một cõi thơ nhưng được tác giả khéo léo dùng nhiều thi pháp khác nhau diễn tả:

 

1.

Ca xang mộng huyễn xanh ngất lời

Sát vai người mà sao chia phôi?!

Mà sao im tím khi lá nở

Em hát ngất âm trầm tím môi…

 

2.

Vừa khi âm trầm tím môi. Là

Nhạc trầm âm thấm buốt xương da

Không một ai thấy ta vừa chết

Rừng sương câm thương tưởng em. Và…

 

Hay cảm xúc hoài niệm:

 

8.

Khi cố cựu trở mình trong ngực

Là thanh tân thức với tri âm

Ngần sương hát, khát tình non nước

Vách khuya im, lắng tiếng thạch cầm…

 

Đến đây, nếu âm sắc là trò chơi thời gian (cuộc đời tác giả) thì Huyết âm hay Tinh âm cũng là âm bản vở bi kịch tâm thức mà bản thân tác giả viết ra bằng thơ. Đến những tập thơ Năm chữ năm câu, Năm chữ ngàn câu hay Tám câu lục huyền âm vẫn là Âm Vang Sắc Màu xuất phát từ cảm xúc con người nhất được viết theo thể thơ năm và sáu chữ. Bài thơ “Mùa Giáp Hạt” điển hình:

 

Ngày rớt theo kẻ tay

Tháng rớt theo bóng ngày

Nghe năm cùng tháng tận

Nhìn bóng lửng hình lay

Sắc màu in lắng nở

Âm vang nín lặng bay

Là lúc mùa giáp hạp

Em rớt qua kẻ tay

 

Ý niệm thời gian đậm nét qua bài thơ trên, Ngày, Tháng, Nghe, Nhìn, Sắc, Âm có đủ trong sáu câu đầu. Ngày tháng là thời gian, Nghe Nhìn thuộc cảm xúc, Sắc Âm là thuộc tính biểu tượng để có câu kết “Là lúc mùa giáp hạt[4]/Em rớt qua kẻ tay” nêu bật sự mất mát, trống rỗng do thời gian mang đến. Dòng chảy thời gian lúc này cũng là dòng chảy tâm thức với bài thơ “Không đề I”nêu bật không thời gian của giấc mộng, có nghĩa thời gian bao trùm mộng mị, cấu trúc cuộc đời hay đúng hơn con người gắn chặt thời gian không những vật chất mà còn cả tinh thần và yếu tính của nó. Tồn tại và thời gian (being and time) là một chủ đề lớn trong triết học Heidegger thì dòng chảy thời gian hiện hữu suốt cõi thơ NLV. Chính Âm Vang Sắc Màu là thuộc tính của dòng tâm thức tồn tại trong dòng chảy thời gian này.

 

Không Đề I

Nhảy qua một giấc mộng

Nhảy qua một bầu trời

Giấc mộng thì nửa vời

Bầu trời thì lộn ngược

Nhảy qua đời sẫy bước

Úp mặt soi vết thương

Thấy ở cuối con đường

Cầm dương bay áo đỏ

Nhảy qua một trận gió

Gió ôm chân thời gian

. . . . . .

 

Nhảy qua một tiếng sáo

Sáo buốt lóng xương mây

Thì ra là mộng đầy

Giấc mộng trốn trong mộng!!!...

 

Chùm thơ “Không Đề” là những trạm dừng chân tâm thức trên dòng chảy thời gian. Những trạm này biểu mẫu cái self tương quan qua cảm thán. Tương quan với chính mình, bạn bè, kỷ niệm, với những mối ám ảnh không rứt ra được, và lập đi lập lại trong suốt một đời thơ. Bài thơ trên với hai câu đầu tiên: Giấc mộng, bầu trời là biểu tượng thời gian và không gian, hai câu kế Giấc mộng thì nửa vời/Bầu trời thì lộn ngược vẫn là chữ Thời (time) và Khoảng cách (space). Hai câu này đặc biệt giống một bài ca vùng sa mạc Tân Cương quan niệm cuộc đời: “Người ta nói trời như cái chậu úp ngược. Chúng ta bò lổn ngổn giữa sinh và tử… đến như nước chảy, đi như gió. Không biết từ đâu đến, cùng về lại chỗ đó!”[5] Bước nhảy này là khát vọng vượt qua vì đời sẫy bước và cú nhảy qua mà chính tác giả xem như một giấc mộng. Nhưng giấc mộng đời như một trận gió, chỉ là mộng trốn trong mộng bởi “gió ôm chân thời gian” có nghĩa vở bi kịch cuộc đời không hề thay đổi được vì “Gò đống bay quá trắng/Đồi núi bay quá xanh/Biển hồn ta quá tanh/Chẳng biết vì sao vậy”? sắc màu vang tiếng trong ba câu thơ để có câu hỏi cuối.

 

Bài thơ “Không Đề II” khổ thơ 1 với âm sắc “đen trắng” dẫn đến ý niệm “ngày và đêm”, “thức và ngủ” và bước qua khổ thơ 2 diễn tả một “mùa bi âm” với đêm đen nhưng thức trắng. Và khổ thơ 3 là “cuộc biển dâu đen trắng”, ý và nghĩa bài thơ được tác giả đảo lộn qua cách xử dụng chữ nghĩa đen và nghĩa bóng:

 

Vuông đen ai thức trắng

Cho ta thức với nghen

Đâu cần chi ngọn đèn

Có trời quen soi tỏ

. . . . . .

 

Khuya chồng lên khuya vắng

Thức trắng cùng vuông đen

Mùa bi âm đá lèn

Vết thương tâm chưa tạnh

Chẳng riêng ai cô quạnh

Ai kia quạnh lắm không

Mùa bi âm ngô đồng

Vết thương tâm chưa dứt

. . . . . .

 

Trắng tinh ma nhớ bạn

Thức trắng xâu ngàn thâu

Khuya chồng lên khuya sâu

Biển-dâu-đen-với-trắng…

 

Bài “Không Đề IV” một ám ảnh quá khứ mịt mù xa xăm, nhưng tâm tư tác giả biến thành một hoài niệm giàu tình yêu thương máu mủ ruột thịt và những câu thơ hay đẹp không ngờ: Đâu sắc mây năm cũ/Đâu tiếng cồng mùa xa/Hỏi như là bước qua/Những khuôn hình gió lật. Hay nỗi đau: Mùa xa rêm ký ức/Năm tháng đã lưng đồi/Chiều vẫn rụng và rơi/Rụng và rơi không dứt… Và nhớ: Đứa em về trong gió/Trái gấc chín lung linh/Năm mươi năm tượng hình/Mùa xa chưa tắt nắng. Đến bài thơ “Không Đề VII” tác giả vẽ bức tranh Phố Mùa Thu cùng Âm vang kỷ niệm. Xử dụng hầu như chỉ Âm Sắc: Em hóa thân ngực phố/Hay mùa thu hóa thân/Lá Dương Cầm đưa chân/Hoa vĩ cầm đón mộng … hay: Phố dài hơn vắng im/Em xa hơn bóng chim/Ngã ba nhòe tiếng gọi/Mộ lòng ta chợt hỏi/Phố xanh chưa hồn rêu … Khổ thơ thứ ba: Sonata ngợp phố/Phố ướt đẫm dư vang/Không gian tan tan tan/Chìm chìm chìm tĩnh vật.

 

Bài thơ “Âm Cuối Thu” đúng là vệt nắng lụa, nốt nhạc êm đềm dịu dàng nổi bật trong khu rừng thơ tán thán cuộc nhân sinh một cách cuồng nộ của các bài Không Đề.

 

Chiêm bao màu nắng lụa

Hửng sáng ửng một đóa

Cúc vàng đang ngậm sương

Tóc bạc vừa níu gió

Câu thơ hẹn cuối đường

Nét nhạc rung song cửa

Hỏi ta vui hay buồn?

Theo nắng sáng xuống phố!

 

Bài thơ “Sông Khóc” là một tự sự điển hình với lần quay về quê nhà, ngồi trên sông nhớ một thời tuổi dại, một đời “tuyệt bi âm” với những lần ra đi rồi quay về. Dòng sông trôi là dòng thời gian đưa đẩy dòng đời cùng âm vang tiếng khóc cho bao hợp tan, ly biệt:

 

Sông trôi nghe sông khóc

Ta đi nghe ta trôi

Một chút nắng xa xôi

Chân dung người khuất mặt

Sông khóc âm trong vắt

Mạn thuyền im vết thương

Dấu môi lạnh dấu hương

Dấu chân tìm tuổi dại

. . . . . .

 

Dòng thời gian chuyên chở bao nghiệt ngã, đắng cay mà nỗi ngậm ngùi cuốn tác giả trôi theo dòng sông dĩ vãng. Thực tại không dừng lại vì sông khóc nghe sông trôi/ta đi nghe ta khóc… khiến nỗi niềm biến thành dòng chảy xúc cảm, vực trở lại những nổi đau ngày trước nhưng chưa phải dừng lại mà còn kéo dài tưởng chừng không dứt:

 

Ta trôi nghe ta đi

Choàng vai năm tháng cũ

Lá khô rơi tiếng hú

Chiều xa động đáy mồ

 

Khổ thơ thứ hai làm người đọc cảm giác sông chính là niềm đau và niềm đau trong lòng này bao trùm thực tại: con phố, hàng cây, núi non, mây trời … và âm vang của nó chính là tiếng khóc của một dòng sông, của một tấm lòng, của một đời người cô quạnh:

 

Tuổi dại đã bay đi

Dấu hương tìm đâu thấy

Thương tâm cành khô gãy

Mùa chiêm bao âm thầm

. . . . . .

 

Chiều rơi rơi rơi rơi

Sông trôi nghe sông khóc

Ta đi nghe ma đọc

Búng huyết tuyệt bi âm

Chiều trầm trầm trầm trầm

Chùa xa chuông thở nhẹ

Cây già nua nhắc khẽ

Sông khóc nghe sông trôi

Đáp lời em sông ơi

Ta đi nghe ta khóc…

 

Bài thơ trên cũng là điển hình thi pháp của Nguyễn Lương Vỵ. Tôi muốn nói cách diễn tả cảm xúc của anh không chỉ thể thơ năm chữ mà còn ở mọi thể loại thơ khác. Luôn đa nghĩa, đa âm, giàu bóng hình ảnh tượng khiến Âm Vang Sắc Màu trở thành đặc thù cõi thơ anh. Tóm lại, Nguyễn Lương Vỵ đã viết cuộc đời mình bằng thơ. Thơ anh phản ánh trực tiếp cuộc đời theo thứ tự thời gian (chronological). Trong cuộc đời mình nhiều biến cố bi thảm xảy ra và dù điều này tỏ lộ hầu hết trong các bài thơ, thơ anh vẫn một mực bền vững tình cảm hi vọng vào cuộc sống. Tuy anh không ngần ngại bày tỏ xúc cảm trong những bài cảm thán, đặc biệt trong những tập thơ mang chữ Âm như Hòa âm, Huyết âm, Tinh Âm, Lục Huyền Âm … nhưng nội dung trình bày sâu sắc phần tâm tư tiếp giáp từ đáy vô thức xuất hiện lên cõi ý thức thông qua một giai đoạn trong hành trình cuộc đời. Anh cũng đặc biệt viết nhiều bài thơ Kỷ Niệm: Kỷ niệm với người thân, bạn bè, các di tích anh từng đã đi qua và cảm hứng từ tiền nhân, sự kiện lịch sử hay những nhà thơ lớn đi trước.

 

Tuy nhiên Tuyển tập thơ (1969-2014) chưa phải là toàn thể sự nghiệp thi ca của Nguyễn Lương Vỵ. Trong khi tôi viết bài này, anh cho biết đang chuẩn bị xuất bản tập thơ thứ mười hai. Bởi điều kiện sức khỏe đã hạn chế sức sáng tác của anh như đã nói ở trang đầu, nhưng bằng vào nhiệt tình đam mê anh vẫn tiếp tục làm thơ và dịch thuật thơ cổ (đã in tập Thơ Trần Nhân Tông và đang dịch tập thơ chữ Hán Nguyễn Trãi). Sự nghiệp thi ca Nguyễn Lương Vỵ không những đã đóng góp đáng kể vào gia sản thi ca dân tộc mà còn là một phần di sản quí giá của văn hóa Việt Nam tại Hoa Kỳ.

 

Tháng 5/2019

Lê Lạc Giao

 



[1] “Amor fati: let that be my love henceforth! I do not want to wage war against what is ugly. I do not want to accuse; I do not even want to accuse those who accuse. Looking away shall be my only negation. And all in all and on the whole: some day I wish to be only a Yes-sayer”. (Nietzsche – The Gay Science)

 

[2] Courage as a human act, as a matter of valuation, is an ethical concept. Courage as the universal and essential self-affirmation of one's being is an ontological concept. The Courage to Be – Paul Tillich

[3] Hệ thống cơ cấu lý thuyết về mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong quá trình tâm lý.

[4] Mùa Giáp Hạt: Thời gian con người làm nông sống khó khăn, vì vụ mùa trước đã chấm dứt và lương thực cạn mà mùa sau chưa thu hoạch được.

[5] Nhân thuyết thiên vũ thị cá phúc bồn, ngã môn bồ bặc trứ tại sinh tử… Lai như lưu thủy hề, thệ như phong. Bất tri hà lai hề, hà sở chung!



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.