Hôm nay,  

Cổ Tích và Truyền Kỳ

31/01/201700:01:00(Xem: 3859)
Thưa quí Bạn đọc, trong những ngày đầu Xuân Đinh Dậu, xin được gởi đến quí Bạn đọc về chuyện “Cổ Tích và Truyền Kỳ” và đôi bài kế tiếp là “Cổ Tích và Truyền Kỳ thời Hùng Vương”  để hài hòa với không khí ngày đầu xuân. Sau đấy, sẽ đăng “Trang Sử Việt” vào thứ Ba và thứ Sáu như thường lệ. 
Trân trọng - NLY
____________
 
 CỔ TÍCH VÀ TRUYỀN KỲ
 
Những chuyện cổ tích và truyền kỳ của Việt Nam, nếu viết riêng một cuốn sách vẫn chưa đủ. Trong khuôn khổ khái quát, tôi chỉ biên soạn các sự tích thiết yếu mà thôi.
 
 I- Tam Hoàng: Tam Hoàng là 3 vị lỗi lạc thời cổ đại ở Á Đông, với sự lỗi lạc của các ngài, nên người Tàu đã nói rằng các ngài là tổ tiên của họ. Nhưng chúng ta đều biết Lạc Việt, khi xưa sống bên bờ sông Dương Tử. Sau này bị người Hán (Tàu) hung hãn lấn chiếm. Thời xa xưa ấy, Việt tộc đã biết làm nông nghiệp lúa nước. Tại tỉnh Hà Nam ngày nay, các nhà khảo cổ khai quật tìm thấy những vỏ rùa có khắc văn tự (chữ) trên đồ đá mài, như: Rìu, búa, dao, chày... và dụng cụ quay tơ bằng đá, tức là thời ấy Việt tộc đã biết dệt vải, làm ra tơ lụa. Còn tìm thấy Việt tộc vào thời xưa đã biết làm đồ gốm sứ và đồ đồng: Nồi đồng, đầu mũi tên bằng đồng... Nhà khảo cổ học Anderson đã viết: “Thời đại các di vật ấy cách đây 5.000 năm, đấy là nền văn minh Đông Á của Việt tộc”. Vùng đất nơi bờ sông Dương Tử, thuở xưa là của Việt tộc, nhìn vào mốc thời gian ấy, các vị Tam Hoàng là thủy tổ của người Việt thì đúng hơn là của người Tàu.
 
 1- Vua Phục Hy (4480-4365 TCN), tương truyền thân mẫu của ngài là bà Hoa Tư, song sinh ra ngài và Đức Nữ Oa, cả hai anh em dáng dấp rất kỳ lạ, “thân rồng đầu người”. Ngài để lại một sự nghiệp to lớn được lưu truyền như sau:
 a- Sáng tạo văn tự: Có lẽ là chữ “Khoa Đẩu” của Việt tộc (vì lúc ấy chữ Hán chưa có), trong bản dịch Kinh thư của Thẩm Quỳnh đã ghi: “Cung Vương đến nước Lỗ, dỡ nhà cũ của Khổng Tử, cất lại lớn hơn để tiện cúng tế. Thấy sách dấu trong vách, viết bằng lối chữ Khoa đẩu. Khổng An Quốc đem sách ấy dâng cho vua Hán (149-140 TCN). Vua bảo dịch ra lối chữ lệ. Gồm có 30 thiên, gọi là cổ văn Thượng thư” (tức là chữ Khoa Đẩu mà người Hán ngày nay gọi là chữ Đại triện". (Người viết sẽ trình bày về chữ Khoa Đẩu của Việt tộc khi có dịp).
 b- Sáng tạo ra lịch thời tiết: Trong cuốn “Vân Đài loại ngữ” của Lê Quí Đôn, nói về sách “Xuân Thu Nội Thị” đã viết: “Vua Phục Hy đặt ra 8 tiết, vạch ra hào ứng về thời tiết, khí hậu, ngài còn đặt ra 8 quẻ, mỗi quẻ 3 vạch tượng trưng cho 24 khí tiết". 
  c- Sáng tạo dịch học: Truyền sử kể rằng, ngài dùng 55 điểm trên mình con Long mã hiện lên ở sông Hoàng Hà tạo ra Hà Đồ. Vua Đại Vũ dùng 45 điểm trên lưng Rùa thần hiện lên ở sông Lạc tạo ra Lạc Thư. (Người viết sẽ trình bày về Tử vi, phong thuỷ  khi có dịp).
 d- Phục Hy còn chế tác một loại nhạc cụ, gọi là Cầm và sáng tác nhạc khúc, làm phong phú đời sống tinh thần cho người đời. Ngài còn dạy người ta khoan gỗ lấy lửa, đun chín thức ăn, con người bắt đầu không còn ăn uống bằng đồ sống sít nữa. Phục Hy khi xưa ở vùng Hoài Dương, Hà Nam, Tế Ninh, Khúc Phụ, Sơn Đông. Ngày nay ở Tế Ninh còn có lăng của ngài. Hằng năm vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, dân gian từ các nơi tề tựu về đây, cúng tế vị thủy tổ có công phát minh nhiều thứ hữu dụng cho đời sống con người.
 
 2- Đức Nữ Oa: Bà là em gái của Phục Hy, là “Đệ Nhị Hoàng”, là người từng luyện đá ngũ sắc để vá trời. Truyền sử ghi rằng Bà Nữ Oa dùng bùn ướt nắn thành người ta. Một ngày kia, có một trận bão lớn gây cho bầu trời bị sập một lỗ hổng lớn, nước như thác đổ, dân chúng bị trôi chết rất nhiều. Bà bưng một tảng đá to bay đến nơi lỗ hổng để trám lại nhưng nước đổ quá mạnh, Bà Nữ Oa bị dội ngược trở lại. 
Bà đi lượm rất nhiều đá ngũ sắc, chất đống bên lỗ hổng cao như núi. Rồi cắt rất nhiều cây lau đem phủ lên đá ngũ sắc, trui đốt đến 9 ngày đêm. Sau đó Bà nhanh nhẹn đem những hòn đá có sẵn bên lỗ hổng, liên tục lấp lỗ hổng trong 7 ngày đêm, cuối cùng lỗ hổng lớn cũng lấp lại được. Vị Nữ thần dũng cảm đã trừ được một tai nạn to lớn để cứu dân chúng. Từ đó dân chúng bắt đầu xây dựng cuộc sống thanh bình, đàn ông thì cày cuốc làm ruộng rẫy; đàn bà thì may vá, dệt vải, và tất cả được sống trong sự yên bình. 

 
 3- Vua Thần Nông (3220-3080 TCN): Ngài là Đệ Tam Hoàng, còn gọi là Viêm Đế (tổ tiên Việt tộc). Theo truyền thuyết, vua Thần Nông là người đã dạy dân chúng làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch điền (lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi thu hoạch mùa màng) hoặc lễ Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), nên dân gian gọi ngài là Ngũ Cốc Tiên Đế và có câu: “Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc” nghĩa là: Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc. Ngài đã dạy dân cách dùng thuốc Nam để trị bệnh. 
     Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, phần lời tựa ghi: “Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam-Bắc. Thuỷ tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương”. Theo Đế Vương thế kỷ và Sử Ký-Bổ Tam Hoàng bản kỷ thì Thần Nông thị giữ ngôi đế gồm có 9 đời: Viêm Đế, Đế Lâm Khôi, Đế Minh, Đế  Trực, Đế Nghi, Đế Lai, Đế Khắc, Đế Du Võng.
 
 4- Hoàng Đế (2698-2599 TCN): Hoàng Đế tên thật là Công Tôn Hiên Viên là lãnh tụ Hoa tộc. Truyền thuyết thời Hoàng Đế đã phát minh: Làm nhà, đóng xe, thuyền, chế kim chỉ nam, làm lịch, y thuật... nên có người liệt Hoàng Đế vào Tam Hoàng. Tương truyền, Hoàng Đế có một sử quan tên là Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ Hán cổ. Tuy nhiên, có tài liệu đã ghi rõ ràng rằng Hoàng Đế hợp với Viêm Đế đánh bại Xuy Vưu, rồi Hoàng Đế lại tiêu diệt Viêm Đế là lãnh tụ của Viêm tộc (tức Việt tộc), độc chiếm sáu tỉnh lưu vực sông Hoàng Hà rồi lập ra nước Tàu. Hiên Viên đã phỏng theo sinh hoạt của Viêm tộc (Việt tộc) để tổ chức xã hội Hoa tộc, vì Hoa tộc lúc đấy là một bộ lạc bán khai, du mục, gốc Turk lai Mông Cổ ở phương Bắc vào xâm chiếm đất Trung Nguyên, với văn hoá truyền khẩu (chưa có chữ viết). Kẻ chiến thắng chiếm đoạt tài sản của kẻ chiến bại, như bắt dân Viêm tộc làm nô lệ, chiếm đất nước và văn hoá trong đấy có chữ “Khoa Đẩu là chữ Việt cổ” rồi biến cải chữ Khoa Đẩu ra chữ Hán?!.
 
   5- Ngũ Đế (Tiếp thời Tam Hoàng), gồm có: 
 - Đế Cốc (? - 2453). - Đế Chí (? - 2365). 
 - Đế Nghiêu (2337- 2258 TCN), tên là Phóng Huân, là anh em khác mẹ với Đế Chí, ông thuộc bộ tộc Đào Đường nên còn gọi là Đường Nghiêu. Theo truyền sử, sau khi Đế Cốc mất, Đế Chí lên ngôi, Đế Chí không có tài trị nước. Nên Phóng Huân lên thay tức Đế Nghiêu. Đế Nghiêu là một vua đạo đức, ông truyền ngôi cho Thuấn, không truyền ngôi cho con trai là Đan Chu, đời sau xem là tấm gương tốt của việc chọn người tài đức. 
 - Đế Thuấn (2258-2205TCN), tên là Diêu Trọng Hoá hay Hữu Ngu Thị. Thuấn nổi tiếng là người hiền đức. Mẹ mất sớm, cha là Cổ Tẩu lấy vợ khác và sinh ra Tượng. Ông bị cha, mẹ ghẻ và Tượng hành hạ, Thuấn vẫn giữ hiếu thuận. Tiếng tốt đồn xa, vua Nghiêu gả cho Thuấn hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh. Khi vua Nghiêu già yếu, không nhường ngôi cho con trai mà nhường ngôi cho Thuấn (53 tuổi)?!.
 - Đế Vũ (2205-2198 TCN), tên là Tỉ Văn Mệnh, thường gọi là Hạ Vũ hay Đại Vũ, là vua đầu tiên của nhà Hạ. Theo truyền thuyết, vua Thuấn sai Cổn đi trị thuỷ, Cổn không làm được nên bị xử tội chết. Thuấn lại dùng con Cổn là Vũ trị thuỷ, Vũ trị thuỷ thành công. Nhờ có công, vua Thuấn không truyền ngôi cho con mình là Thương Quân mà truyền ngôi cho Vũ.
 
Sử sách đã ghi rằng: “Kinh Dương Vương kết hôn với con gái vua Thần Long, miền Động Đình Hồ, sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi lấy đế hiệu là Lạc Long Quân”. Nhìn chung, truyền thuyết đã ghi: “Việt tộc là hậu duệ của Lạc Long Quân, nên Việt tộc chính thống là dòng giống Rồng. Phục Hy là thủy tổ giống rồng và cũng là tổ tiên của Lạc Long Quân. Từ đó, thấy rõ ràng Tam Hoàng là tổ tiên của Lạc Việt vậy”.    
 
Nguyễn Lộc Yên


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.