Hôm nay,  

Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký (7-10)

27/10/201600:01:00(Xem: 4085)
Chú Giải
Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký

 

Nguyễn Văn Sâm

(Chuyện 7, 8, 9, 10, sẽ đăng từ từ tiếp theo)

  

C:\Users\Admin\AppData\Local\Temp\Temp1_ChuyenDoiXua (1).zip\ChuyenDoiXua\#_Page_005.jpgC:\Users\Admin\AppData\Local\Temp\Temp2_ChuyenDoiXua (1).zip\ChuyenDoiXua\#_Page_009.jpg

.

(Hình trang đầu quyển Chuyện Đời Xưa, những sách quý như thế nầy ngày trước chủ nhơn Vương Hồng Sển (có chữ ký tên và triện) cắp ca cắp củm giữ gìn nay lưu lạc tứ tán như đàn ong bể ổ. NVS)

    

Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.

Tại sao quyển truyện mỏng nầy lại có sức hấp dẫn như vậy? Chính là nhờ ông Trương khi viết đã đưa ra hai mục tiêu và đã làm gần như trọn vẹn

1. Giáo dục về luân lý. Cho người đọc thấy những bài học tốt d ùng trong cách ở đời, cách xử thế, ứng xử v ào trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin..

2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện làm văn chương, mặc dầu điều nầy không hẵn là xấu, mà chỉ có sự sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của người bình dân. Người đọc đón nhận cũng vì lẽ đó.

Ngoài ra vì tác giả khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng có thể nói là cuối thế kỷ 19 nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể thấy (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể…).

Sách viết hơn trăm năm trước, bằng chữ của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự chú giải những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký có lý do để ra đời. Bản đánh máy được cẩn thận dò theo bản in năm 1914. (NVS)

Nguyễn Văn Sâm (Victorville, CA, tháng 11, 2016)

 

 

7. Đặt lờ trên ngọn cây

 

     Có một lão kia[1] nghèo không biết lo phương nào, mà làm cho ra tiền, mà ăn qua tháng ngày với người ta. Than thở nói to nói nhỏ với vợ. (tr. 14) Vợ nó nói rằng: Cực thì thôi[2]! Có một mình anh dở làm vậy! Người ta sao lanh lợi khéo lo khéo liệu[3]. Chồng mới nói: tao mạnh giỏi[4], làm giống gì cũng được hết; ngặt[5] có một đều không ai chỉ vẽ cho mà mần. Thì vợ nó nói: Thôi để tôi biểu cho mà mần, đi mua ít cái lờ, mà đi đặt cá mà ăn. Thằng chồng khờ nói: Biết ở đâu có cá mà đem mà đặt? – Có khó gì đều ấy! Coi chỗ nào nhiều cứt cò[6], đem tới đó, mà đặt thì trúng. – Ừ, vậy tao làm được.

    Sáng ngày ra, lăng căng[7] xách tiền đi mua đó[8] mua lờ. Vác rựa đi coi chỗ, thấy trên cây bần[9] kia trắng những cứt cò, mừng, về vác lờ đem tới, leo lên đặt trên ngọn cây[10].

 

8. Nhơn vật đạo đồng

 

     Ông Trương Thủ Chỉ, đi câu dọc gành[11], thấy một cặp cua đi ăn với nhau. Rủi sao con cua cái tới kỳ lột, non da non thịt, yếu đuối đi không đặng. Con cua đực đi tha mồi về cho ăn. Nằm ngoài giữ kẻo cua khác tới ăn giành đi.

     Đến khi cua cái cứng gối[12], thì cua đực mừng vợ đã mạnh. Mà kế lấy[13] mình lại lột, rát rao[14] đau đớn quá, nằm một chỗ. Cua cái vô tình[15], không (tr. 15) nghĩ tình cũ ngãi xưa, bèn bỏ không màng đến[16], chẳng thèm tới lui thăm viếng. Cứ đi chơi bời, ngồi lê đôi mách[17], dạo xóm cả ngày. Chẳng những làm vậy mà lại rủ chúng bạn tới ăn thịt cua đực non da yếu gối.

     Ông Trương Thủ Chỉ thấy vậy, thì gẫm việc đời, mới than rằng: Nhơn vật đạo đồng[18]!

 

9. Nói láo mắc[19] nói láo

 

     Có một thằng đi xứ xa về nói chuyện: Tôi ngó thấy một chiếc tàu lớn và dài quá chừng. Cha tôi thuở hai mươi tuổi, mà bắt trước mũi[20] mà đi ra sau lái, đi mới tới cột buồm giữa đã già bạc râu bạc tóc, chết giữa chừng, không đi tới lái.

     Thằng kia nghe nó nói láo làm vậy, thì mới nói: Vậy chưa mấy! Cho bằng tao, tao đi rừng cao[21], tao thấy một cái cây cao lớn quá chừng quá đỗi! Từ gốc chí ngọn, chim bay mười năm chưa tới.

     – Mầy đã nói láo quá cha tao đi nữa[22], có lẽ nào mà có? Thì thằng kia lại nói: Ấy! Như không có, thì lấy cây ở đâu mà làm cột buồm, mà đóng chiếc tàu mầy nói với tao đó, cho được? (tr. 16)

 

10. Láo dinh láo quê[23]

 

     Hai đứa kia có một tài đi nói láo mà ăn mà thôi. Một đứa láo dinh, một đứa láo quê. Hai đứa đi đàng gặp nói chuyện với nhau, đâu vừa đến cái sông, mới rủ nhau mà tắm cho mát, kẻo trời nóng nực lắm. Thằng điếm quê muốn nói láo, mà gạt thằng kia chơi, thì buộc năm tiền vào lưng, không cho thằng kia thấy, mới lặn xuống dưới nước một hồi, rồi trồi lên, tay xách năm tiền, mà nói rằng: Anh này. Tôi xuống dưới, tôi gặp hai ông tiên ngồi đánh cờ tướng với nhau, tôi ngồi ghé[24] lại tôi coi. Thì hai ông cho tôi năm tiền biểu tôi thì đi đi, đừng có coi nữa. Tôi mừng xách tiền trồi lên.

     Thằng kia biết nó nói láo, thì tính bề lật độ[25] nó chơi, nên mới nói: Để tôi lặn xuống, tôi coi thử, có khi các ổng sẽ cho tôi[26] chăng. Nó mới lặn xuống quào dưới bùn, lấy miếng sành[27] rạch mặt cho trầy ra, rồi trồi lên kêu thằng kia: Anh ơi! Tôi xuống gặp hai ông tiên đó, mà họ giận, họ nói: Tao đã cho thằng trước năm tiền, biểu về mà chia nhau, sao mầy còn xuống đây làm chi nữa? Thì họ lấy bàn cờ mà quăng lả mặt[28] tôi đi đây[29]. (tr. 17)

     Té ra điếm mắc điếm: thằng kia phải chia cho nó hai tiền rưỡi; ăn trọn một mình không đặng[30].

 



[1] Lão kia: Người kia, cách nói nầy như nói thằng cha kia, cha kia…không có nghĩa là một người già.

[2] Cực thì thôi: Nhóm chữ chỉ sự xót thương, tội nghiệp. Cơ khổ.

[3] Khéo lo khéo liệu: Biết tính toán, biết lo xa.

[4] Mạnh giỏi: Có sức khỏe.

[5] Ngặt: Cái khó khăn. HTC, Ngặt: Nguy hiểm, gian nan, túng cùng hết thế.

[6] Cứt cò: Cò kiếm ăn, tìm chỗ có nhiều cá, thường đậu trên cây gần đó, ỉa cứt, dính trắng cây, nông dân có kinh nghiệm biết chỗ nước ở đó có cá.

[7] Lăng căng: Vội vã, lo túi bụi. Nay ta nói lăng xăng mặc dầu thời Petrus Ký hai từ nầy đều được dùng.

[8] Đó (cái): Dụng cụ để bắt cá.

[9] Bần (cây): Loại cây mọc mé nước, có nhiều ở vùng sông nước miền Nam, trái chua chua chát chát, con nít nhà quê thường bẻ ăn cho vui miệng khi đi tắm song, leo cây… CD: Bần gie đơm đớm đâu sáng ngời./ Lỡ duyên tại bậu trách trời sao đang.

[10] Thường trong dân gian ngày trước có nhiều chuyện như cười ngạo người khuyết tật, Petrus Ký ở đây chỉ ghi lại bằng giọng văn của ông. Nên đọc chuyện nầy để hiểu rằng lời dặn không rõ ràng thì người nghe dễ hiểu sai lệch hơn là để ý đến sự thiếu thông minh của người khờ khạo mà cười ngạo.

[11] Gành (cái): Chỗ đất gie ra bên mé biển, như Gành Ráng, gành Hào.

[12] Cứng gối: Nói đàn bà sau khi sanh để một thời gian thì mạnh trở lại. Đây chỉ cua cái, vỏ cứng lại sau khi lột.

[13] Kế lấy: Kế đó, sau đó.

[14] Rát rao: Rát, rát lắm.

[15] Vô tình: Không có tình cảm với ai. Nay nói vô cảm, chữ vô tình chỉ nói về trường hợp vô ý, không để ý

[16] Không màng đến: Chẳng để tâm đến.

[17] Ngồi lê đôi mách: Đi xạo sự đằng nầy đằng nọ. Nay nói là đi tám chuyện, đi buôn chuyện.

[18] Nhơn vật đạo đồng: Tánh người và tánh thú vật có điều giống nhau. Chuyện nầy gần đây được viết thành bài ca Vọng cổ rất hay. Thiệt ra một vài trường hợp chứ không phải là tất cả. Ông Trương Vĩnh Ký có qua bi quan chăng?

[19] Mắc: bị, bị thua.

[20] Bắt trước mũi: Từ đằng trước mũi mà đi tới.

[21] Rừng cao: Rừng nhiều cây cao lớn.

[22] Quá cha tao đi nữa: Hơn cha tao nữa. Nay  nói: quá cha tao, hơn cha tao, quá cha tao nữa, hơn cha tao nữa. Tiếng đi trong câu nầy đã bị biến mất.

[23] Láo dinh láo quê: Nói láo ở thành phố, ở nông thôn.

[24] Ngồi ghé: Ngồi chỉ để một phần đít lên ghế thôi, tỏ ý kính trọng người đương ngồi ở đó

[25] Lật độ: Làm cho lòi chành, làm cho thấy bên kia là sai trái mà cứ nói mình phải. HTC đưa ra một nghĩa khác nữa: Lật độ: Phá việc tức ngang. Đàng gái lật độ, không chịu gả con.

[26] Sẽ cho tôi: Chia cho tôi.

[27] Miếng sành: Miểng sành, mảnh bể của chai lọ, đồ sứ…

[28] Lả mặt: Rách mặt.

[29] Tôi đi đây: Tôi đây. Cũng cũng như nhiều câu nói khác, chữ đi nay đã bị biến mất

[30] Ăn trọn một mình không đặng: Câu nầy không đúng với sự kiện trong chuyện vì thằng kia đem tiền của mình ra mà đùa giai.



..

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.