Hôm nay,  

Cách Mạng Dân Chủ: Thành Công Và Thất Bại (1)

9/21/201600:00:00(View: 5930)

Rất nhiều các cuộc cách mạng đã xảy ra kể từ sau Chiến Tranh Lạnh với những kết quả rất trái ngược: nền dân chủ của Nam Hàn và Đài Loan trở nên vững chắc; tại Miến Điện, Tunesia, Brazil, Argentina, Ukraine còn bấp bênh; Ai Cập thất bại trong khi Syrie và Lybia thành hai tấm thảm kịch nhân loại. Mỗi quốc gia đều có hoàn cảnh chính trị và lịch sử khác nhau nhưng thiết tưởng chúng ta cũng cần rút tỉa các bài học chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi tại Việt Nam trong tương lai.

Hai nhà nghiên cứu Juan J. Linz và Alfred Stepan [1] đưa ra nhận xét rằng dân chủ là một mô hình nhà nước cho nên chỉ tồn tại trong một quốc gia. Ý tưởng tuy đơn giản nhưng mang áp dụng vào trường hợp hiện thời của Syrie khi hai cánh Hồi Giáo Sunni, Shiite và sắc dân Kurd đều muốn vẽ lại làn ranh giới khu vực thì không thể nào xây dựng thành công một nhà nước dân chủ.

Một khi đã có sự thống nhất về quốc gia thì vấn đề kế tiếp là dùng tiêu chuẩn nào để kết luận một cuộc cách mạng dân chủ thành công hay thất bại? Hai tác giả đưa ra câu trả lời rằng tiến trình dân chủ được xem như thành công một khi mọi thành phần trong xả hội đều đồng thuận với quan điểm dùng nghị trường dân chủ làm phương thức duy nhất để giải quyết mâu thuẫn.

Trong môi trường đó nhà nước không còn sợ bị lật đổ bằng bạo lực. Đại đa số quần chúng chấp nhận rằng mọi thay đổi dù nghiêm trọng thế nào đều phải được giải quyết thông qua tranh luận và lá phiếu. Xã hội xây dựng được nề nếp và cơ chế để giải quyết tranh chấp trên nền tảng hiến pháp và luật pháp. Nói một cách khác, ý thức dân chủ trở nên bình thường như hơi thở của người dân và trong giới cầm quyền.

Linz-Stepan đưa ra năm điều kiện cần thiết và hổ tương để nền dân chủ được hình thành và củng cố:

1. Môi trường thuận tiện cho sự phát triển của xã hội dân sự

2. Môi trường lành mạnh cho các sinh hoạt chính trị

3. Luật pháp được tôn trọng

4. Nền hành chánh hiệu quả

5. Kinh tế phát triển

Xã hội dân sự là tiếng nói quần chúng nhằm thay đổi chính sách và nhà nước. Các hội đoàn dân sự thể hiện nguyện vọng, huy động và tổ chức đám đông nên không thể thiếu vắng trong tiến trình dân chủ. Những nhà cầm quyền độc tài đều muốn kiểm soát, đàn áp hay giết chết xã hội dân sự (như phong trào sinh viên ở Hồng Kông 2014 và Thiên An Môn 1998), nhưng cũng có lúc sẽ chùn tay (như tại Ba Lan Công Đoàn Đoàn Kết 1988, hay Ai Cập năm 2011) một khi phong trào dân sự được sự ủng hộ và tham gia của đông đảo quần chúng kể cả đa số thầm lặng vốn gồm những người không thuộc một hội đoàn nào.

Sinh hoạt chính trị trở nên lành mạnh khi có sự tham dự của nhiều đảng phái; quyền ứng cử và vận động tranh cử được tôn trọng; liên minh giữa các đảng phái được thành hình trong và ngoài nghị trường; quyền bày tỏ chính kiến, quyền biểu tình được bảo đảm. Mục tiêu nhằm tạo ra điều kiện để dân chúng bầu chọn và giám sát nhà nước. Cần lưu ý rằng trong chế độ độc tài xã hội dân sự nắm vai trò chống đối nhà cầm quyền, nhưng qua tiến trình dân chủ thì xã hội dân sự phải góp phần xây dựng nhà nước bằng cách trao và tạo tính chính đáng cho những đảng phái chính trị. Xã hội dân sự phải thoát ra khỏi quan niệm tuyệt đối xem thỏa hiệp là xấu như trong thời kỳ đấu tranh để tập quen dần với tương nhượng giữa các khối lợi ích và những khuynh hướng chính trị vì đây chính là nền tảng của dân chủ.

Để củng cố nền dân chủ, phát huy xã hội dân sự và những sinh hoạt chính trị lành mạnh thì luật pháp phải được tôn trọng. Nền Pháp Trị không dựa vào đám đông mà đặt trên nền tảng Hiến Định, cho nên chỉ sửa đổi Hiến Pháp trong các hoàn cảnh hết sức đặc biệt và thông qua đa số tuyệt đối. Pháp luật còn phải được hổ trợ bởi ngành Tư pháp độc lập, các pháp lệ (legal norms) và ý thức trong quần chúng.

Thể chế dân chủ một khi đã thành hình và muốn ổn định phải xây đựng được bộ máy công quyền và an ninh hiệu quả. Vấn đề này đặt biệt nghiêm trọng tại các nước cộng sản khi nền hành chánh, công an và quân đội đều trở thành công cụ của đảng Cộng sản nên lúc xảy ra cuộc cách mạng thì bị chống đối, giải tán hay tự rã. Mọi chính quyền dù độc tài hay dân chủ vẫn cần đến guồng máy hành chánh để thu thuế và phân phối các lợi tức đến từ thuế khoá như y tế, giáo dục, hưu trí cho dân chúng. Nhà nước dân chủ phải điều hành được giới công chức và an ninh một cách hiệu quả thì mới thực thi được các lời hứa hẹn và không mất dần hậu thuẫn trong quần chúng.

Điều kiện sau cùng cho nền dân chủ được củng cố là kinh tế phải tăng trưởng. Dân chúng có thể chấp nhận tình trạng đời sống khó khăn sau cách mạng nhưng họ phải tin rằng ngày mai tốt đẹp hơn hôm nay. Quyền sở hữu đất đai và hợp đồng thương mại phải được tôn trọng; nhà nước phải ngăn chận được các khối lợi ích độc quyền đầu cơ kinh tế và đầu cơ chính trị. Bởi vì kinh tế khủng hoảng hay trì trệ kéo dài sẽ xoi mòn tính chính đáng của nhà nước, đánh mất niềm tin trong dân chúng khiến tiến trình cải cách chính trị và kinh tế chậm lại.

[1] Problems of Democratic Transition and Consolidation: Southern Europe, South America, and Post-Communist Europe, Aug 8, 1996 by Juan J. Linz and Alfred Stepan
  
Tiếp theo:
Cách Mạng Dân Chủ: thành công và thất bại (2)
https://vietbao.com/a258447/cach-mang-dan-chu-thanh-cong-va-that-bai-2-
Cách Mạng Dân Chủ: Thành Công Và Thất Bại (3)
https://vietbao.com/a258692/cach-mang-dan-chu-thanh-cong-va-that-bai-phan-3
Cách Mạng Dân Chủ: Thành Công Và Thất Bại (4)
https://vietbao.com/a258759/cach-mang-dan-chu-thanh-cong-va-that-bai-phan-4

..

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.