Xin kể cho quý vị nghe một giấc mơ.
Trong một khu rừng hẻo lánh, có một cô gái mồ côi sống cô đơn trong cái nhà lá. Gia tài cô ta quý nhứt là cái gương. Những đêm cô đơn, cô ta xem cái bóng cô ta thấy trong gương như là người thân trong nhà và thường hay tâm sự với cái bóng đó. Ngày qua tháng lại, cái bóng đó trở thành rất thân thuộc với cô ta và cô ta có cảm tưởng không thể sống được khi thiếu cái bóng đó. Một hôm cô lỡ tay đánh rơi cái gương xuống đất và nhìn một cách kinh hãi cái gương vỡ ra ngàn mảnh. Cô cảm thấy mình không còn toàn vẹn nửa khi nhìn những mảnh gương nhỏ bị bể không thể phản chiếu hết khuông mặt của cô. Cô rất khổ sở và bật khóc vì không biết đến khi nào mình mới có thể nhìn lại mình một cách toàn vẹn như trước được.
Cô khóc một hồi thì từ hư không có một ông thần hiện ra. Ông thần này có vẻ rất thông thái, học rộng hiểu nhiều. Ông ta khuyên cô đừng khóc nửa, đó là cái gương bị bể thôi chớ cô ta thì còn nguyên vẹn. Nhưng, cô gái nghĩ tuy mình còn nguyên vẹn chớ mình mất đi người bạn thân muôn đời rồi, và cô ta khóc lớn hơn vì chạnh lòng cô đơn. Ông thần thấy vậy dùng phép thần biến những mảnh bể mất đi để cho cô gái đỡ nhớ nhung. Nhưng rồi khi không thấy những mảnh gương bể đâu, cô gái sợ hãi vì cảm giác hụt hẫng trong lòng, cô không còn gì để nương tựa. Cô ta òa khóc lớn hơn nửa. Ông thần thấy vậy lắc đầu ra đi.
Một bà tiên hiện ra trong ngọn lửa của lò sưởi. Bà ta có vẻ rất dịu dàng và hỏi tại sao cô con gái khóc nhiều như vậy. Khi nghe cô ta tâm sự rằng khi đánh rớt cái gương bể thì cô ta không còn cơ hội để nhìn hình bóng thân thuộc của mình nửa và từ đó phải sống trong cô đơn. Cô ta cầu xin bà tiên làm phép lạ để cho mấy mảnh bể trở thành cái gương. Bà tiên nhìn cô một cách trìu mến và nói: “Con đừng khóc nửa, hãy ngủ đi rồi ta sẽ đến với con trong giấc mơ để biến cái gương đó thành một trở lại”. Cô gái nài nỉ bà tiên hãy làm phép lạ liền bây giờ đi. Cô ta vòi vĩnh níu áo bà tiên. Bà ta im lặng biến đi.
Trong nồi cơm có một ông thần hiện ra. Ông thần này ăn mặc như một người bình dân. Nét mặt ông ta không có gì đặc sắc cho mấy. Ông ta lên tiếng hỏi tại sao cô con gái lại khóc nhiều như vậy. Cô con gái nhìn thần không có gì đặc biệt cho mấy nên không muốn trả lời. Cô ta nghỉ rằng hai vị thần trước coi bộ có nhiều quyền uy như vậy mà không giúp cô được thì làm sao ông thần sau này làm được cái gì. Khi được thần hỏi lần thứ nhì thì cô mới miễn cưỡng trả lời rằng cái gương bị bể ra nhiều mảnh mà không có ai giúp được cô hết. Ông thần cười nói: “Chẳng có gì khó. Con chỉ cần đun bột thành keo và dán những mảnh gương lại, tuy không lành lặn như trước nhưng có còn hơn không”. Cô gái mừng rỡ nghe lời thần chỉ dẫn mà có được cái gương để soi.
Giải thích giấc mơ.
Cô thiếu nữ tượng trưng cho con người tình cảm phàm phu của chúng ta. Ta khổ sở và cô đơn vì ta quen sống trong thế giới nhị nguyên tương đối. Ta không có khả năng tự nhìn lấy mặt thật của ta, ta chỉ hình dung được mặt thật của ta qua suy luận. Tuy nhiên, cái mặt mà suy luận thấy được chỉ là cái bóng trong gương. Cái bóng còn tượng trưng cho suy nghĩ vọng tâm của ta. Ta quen sống với nó đến nỗi ta cho cái bóng là thật và dần dần quên đi cái mặt thật của ta. Vì sống trong thế giới nhị nguyên ta rất đau khổ và cô đơn, ít có gì làm cho ta được hạnh phúc lâu dài. Cái gương bị bể tượng trưng cho vô số cái ngã sở của ta, càng đi lạc sâu vào thế giới vật chất, ta càng cảm thấy cô đơn nhiều hơn vì ta bị phân tán theo cái vô thường của ngã sở.
Ông thần đầu tiên tượng trưng cho hạnh Văn Thù, là đại trí. Đại trí là cái trí cứu cánh giúp ta vượt sắc trở về tánh không. Tuy nhiên không phải ai cũng lãnh hội được tánh không vì ta còn bị cái sắc của cuộc sống vật chất mê hoặc. Khi còn chấp sắc mà có ai biến mất cái sắc mà ta đang bám vào thì ta càng bị đau khổ hơn. Nói một cách khác, vô thường là đạo lý giúp ta thức tỉnh trong cơn mê nhưng có mấy ai chịu mở mắt ra? Có một số người rất hiểu cái lý thuyết của đạo, có thể biện hộ rành mạch, nhưng hiểu biết chỉ là cái bóng của tư duy. Họ bám vào cái bóng của tư duy (kiến thức, kiến giải) mà không dám rời nó. Khi có ai nói nghịch lại những gì họ cho rằng đúng thì họ sẽ bực bội. Cái cản trở nhiều nhứt trong bước đường tìm chân lý ở lãnh vực tư duy là người ta thường núp dưới bóng chân lý để cho sân hận phát triển khi nghe người khác phê bình những gì mình tin.
Bà tiên tượng trưng cho hạnh Quán Thế Âm, là từ bi. Thông thường trong đời sống ít ai chịu tự tu sửa, người ta thường chờ khi hoạn nạn tới thì mới tụng kinh cầu khẩn Quán Thế Âm cứu ta ra khỏi hoạn nạn. Không phải là không có sự mầu nhiệm xảy ra trên thế gian này, nhưng sự mầu nhiệm đó rất hiếm nếu ta không chịu khó tạo nhân lành mà chỉ muốn hưởng quả lành khi khó khăn xảy ra. Bà tiên còn tượng trưng cho tôn giáo của hy vọng, tôn giáo của ngày mai khi ta chết thì sẽ được vào cõi mà tín ngưỡng đó hứa hẹn. Ki tô giáo, phái tịnh độ của Phật giáo hứa hẹn một cuộc sống trường cửu trên thiên đàng hay một cuộc sống hoàn toàn hạnh phúc ở cõi Phật Di Lặc. Tôn giáo cầu cứu của ngày mai giúp ta giữ vững hy vọng trong cuộc sống vô thường này với điều kiện là ta phải bám vào lòng tin như một cái phao. Cầu mười phần mà chưa chắc được một cũng là một cái khó khăn lớn lao cho lòng tin.
Ông thần thứ ba tượng trưng cho hạnh Phổ Hiền, là thực hành. Ta có thể hiểu đạo thật nhiều nhưng rồi nếu không thực hành, cái hiểu biết trở thành bức tường ngăn cảng ta nhìn thấy mặt thật hay Phật tánh. Hạnh Văn Thù tượng trưng cho đạo xuất thế gian. Ta khó rời thế gian được khi ta còn mang theo cục nợ nặng nề của tham, sân, và si mà ta không nhìn ra. Khi ta không thực hành thì ta không bao giờ nhìn ra được những khuyết điểm của ta và ít chịu tha thứ khuyết điểm kẻ khác. Thí dụ ta hiểu rất rỏ hạnh bố thí nhưng khi thực hành bố thí ta cảm thấy rằng ta không thể cho nhiều được. Lúc đó ta mới chợt nhận ra lòng muốn giữ của của mình. Lúc đó ta mới thông cảm được những yếu đuối của người khác.
Trong cơn tuyệt vọng và đau khổ ở trần gian, ta ngẩn đầu lên trời và hy vọng có một đấng thiêng liêng nào đó thương xót ta và cứu vớt ta ra khỏi cảnh trầm luân này. Tuy nhiên nếu ta bám víu vào niềm tin quá độ thì ta sẽ bị thất vọng nặng nề. Thí dụ như khi bịnh nặng ta tin rằng chỉ cần niệm Phật Di Đà mà không cần đi bác sĩ trị bịnh thì bịnh sẽ khỏi liền. Trên thực tế niệm Phật hay cầu nguyện làm giảm lo âu giúp tinh thần ta an nhàng để bịnh mau lành, nhưng ta vẫn phải đi bác sĩ khám bịnh và uống thuốc. Trên đời này có vô số người niệm Phật hay cầu nguyện khi đang bịnh nặng và đồng thời được điều trị bằng thuốc men, nhưng số người được thỏa nguyện thì không có bao nhiêu. Rồi khi bịnh không hết hoặc nặng hơn thì ta lại đổ lỗi cho đấng thiêng liêng mà ta cầu khẩn không linh rồi mất niềm tin hoặc ta bỏ chùa này mà đi tìm Phật ở chùa khác linh hơn.
Thực hành rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày trong đời lẩn đạo. Thực hành có thể hiểu là áp dụng những hiểu biết đạo lý một cách thật lòng. Thực hành đạo trong đời sống hàng ngày không có gì hào nhoáng hết, nó không cao siêu như pháp xuất thế gian, nó không hào hứng cho ta nhiều hy vọng như người mới mua vé số hy vọng được trúng lô độc đắc. Cái hạnh phúc của thực hành rất đơn giản, đơn giản đến độ tầm thường. Cái gương bị sức mẻ không hấp dẫn bằng cái gương tuyệt đối trong sáng của lý tưởng. Nhưng ta xài được cái gương sức mẻ trong hiện tại. Nó tạm thời làm cho ta bớt cô đơn và bớt đau khổ. Trong thực hành ta hiểu được những yếu đuối của ta vì thế ta mới tha thứ và thương được người. Thực hành có thể coi là một nhịp cầu tương giao, giúp ta nhìn lại mặt thật của ta trong quá khứ và biến cái hy vọng tương lai trở thành thực tế của hiện tai.
Xin tặng quý vị bài kệ:
Quá khứ tương lai
Văn Thù, Thế Âm
Ý nghĩa huyền diệu
Nhưng thật xa xôi
Phổ Hiền hiện tại
Diệu dụng hàng ngày
Giúp ta thực hành
Vòng tròn thời gian.
Trong một khu rừng hẻo lánh, có một cô gái mồ côi sống cô đơn trong cái nhà lá. Gia tài cô ta quý nhứt là cái gương. Những đêm cô đơn, cô ta xem cái bóng cô ta thấy trong gương như là người thân trong nhà và thường hay tâm sự với cái bóng đó. Ngày qua tháng lại, cái bóng đó trở thành rất thân thuộc với cô ta và cô ta có cảm tưởng không thể sống được khi thiếu cái bóng đó. Một hôm cô lỡ tay đánh rơi cái gương xuống đất và nhìn một cách kinh hãi cái gương vỡ ra ngàn mảnh. Cô cảm thấy mình không còn toàn vẹn nửa khi nhìn những mảnh gương nhỏ bị bể không thể phản chiếu hết khuông mặt của cô. Cô rất khổ sở và bật khóc vì không biết đến khi nào mình mới có thể nhìn lại mình một cách toàn vẹn như trước được.
Cô khóc một hồi thì từ hư không có một ông thần hiện ra. Ông thần này có vẻ rất thông thái, học rộng hiểu nhiều. Ông ta khuyên cô đừng khóc nửa, đó là cái gương bị bể thôi chớ cô ta thì còn nguyên vẹn. Nhưng, cô gái nghĩ tuy mình còn nguyên vẹn chớ mình mất đi người bạn thân muôn đời rồi, và cô ta khóc lớn hơn vì chạnh lòng cô đơn. Ông thần thấy vậy dùng phép thần biến những mảnh bể mất đi để cho cô gái đỡ nhớ nhung. Nhưng rồi khi không thấy những mảnh gương bể đâu, cô gái sợ hãi vì cảm giác hụt hẫng trong lòng, cô không còn gì để nương tựa. Cô ta òa khóc lớn hơn nửa. Ông thần thấy vậy lắc đầu ra đi.
Một bà tiên hiện ra trong ngọn lửa của lò sưởi. Bà ta có vẻ rất dịu dàng và hỏi tại sao cô con gái khóc nhiều như vậy. Khi nghe cô ta tâm sự rằng khi đánh rớt cái gương bể thì cô ta không còn cơ hội để nhìn hình bóng thân thuộc của mình nửa và từ đó phải sống trong cô đơn. Cô ta cầu xin bà tiên làm phép lạ để cho mấy mảnh bể trở thành cái gương. Bà tiên nhìn cô một cách trìu mến và nói: “Con đừng khóc nửa, hãy ngủ đi rồi ta sẽ đến với con trong giấc mơ để biến cái gương đó thành một trở lại”. Cô gái nài nỉ bà tiên hãy làm phép lạ liền bây giờ đi. Cô ta vòi vĩnh níu áo bà tiên. Bà ta im lặng biến đi.
Trong nồi cơm có một ông thần hiện ra. Ông thần này ăn mặc như một người bình dân. Nét mặt ông ta không có gì đặc sắc cho mấy. Ông ta lên tiếng hỏi tại sao cô con gái lại khóc nhiều như vậy. Cô con gái nhìn thần không có gì đặc biệt cho mấy nên không muốn trả lời. Cô ta nghỉ rằng hai vị thần trước coi bộ có nhiều quyền uy như vậy mà không giúp cô được thì làm sao ông thần sau này làm được cái gì. Khi được thần hỏi lần thứ nhì thì cô mới miễn cưỡng trả lời rằng cái gương bị bể ra nhiều mảnh mà không có ai giúp được cô hết. Ông thần cười nói: “Chẳng có gì khó. Con chỉ cần đun bột thành keo và dán những mảnh gương lại, tuy không lành lặn như trước nhưng có còn hơn không”. Cô gái mừng rỡ nghe lời thần chỉ dẫn mà có được cái gương để soi.
Giải thích giấc mơ.
Cô thiếu nữ tượng trưng cho con người tình cảm phàm phu của chúng ta. Ta khổ sở và cô đơn vì ta quen sống trong thế giới nhị nguyên tương đối. Ta không có khả năng tự nhìn lấy mặt thật của ta, ta chỉ hình dung được mặt thật của ta qua suy luận. Tuy nhiên, cái mặt mà suy luận thấy được chỉ là cái bóng trong gương. Cái bóng còn tượng trưng cho suy nghĩ vọng tâm của ta. Ta quen sống với nó đến nỗi ta cho cái bóng là thật và dần dần quên đi cái mặt thật của ta. Vì sống trong thế giới nhị nguyên ta rất đau khổ và cô đơn, ít có gì làm cho ta được hạnh phúc lâu dài. Cái gương bị bể tượng trưng cho vô số cái ngã sở của ta, càng đi lạc sâu vào thế giới vật chất, ta càng cảm thấy cô đơn nhiều hơn vì ta bị phân tán theo cái vô thường của ngã sở.
Ông thần đầu tiên tượng trưng cho hạnh Văn Thù, là đại trí. Đại trí là cái trí cứu cánh giúp ta vượt sắc trở về tánh không. Tuy nhiên không phải ai cũng lãnh hội được tánh không vì ta còn bị cái sắc của cuộc sống vật chất mê hoặc. Khi còn chấp sắc mà có ai biến mất cái sắc mà ta đang bám vào thì ta càng bị đau khổ hơn. Nói một cách khác, vô thường là đạo lý giúp ta thức tỉnh trong cơn mê nhưng có mấy ai chịu mở mắt ra? Có một số người rất hiểu cái lý thuyết của đạo, có thể biện hộ rành mạch, nhưng hiểu biết chỉ là cái bóng của tư duy. Họ bám vào cái bóng của tư duy (kiến thức, kiến giải) mà không dám rời nó. Khi có ai nói nghịch lại những gì họ cho rằng đúng thì họ sẽ bực bội. Cái cản trở nhiều nhứt trong bước đường tìm chân lý ở lãnh vực tư duy là người ta thường núp dưới bóng chân lý để cho sân hận phát triển khi nghe người khác phê bình những gì mình tin.
Bà tiên tượng trưng cho hạnh Quán Thế Âm, là từ bi. Thông thường trong đời sống ít ai chịu tự tu sửa, người ta thường chờ khi hoạn nạn tới thì mới tụng kinh cầu khẩn Quán Thế Âm cứu ta ra khỏi hoạn nạn. Không phải là không có sự mầu nhiệm xảy ra trên thế gian này, nhưng sự mầu nhiệm đó rất hiếm nếu ta không chịu khó tạo nhân lành mà chỉ muốn hưởng quả lành khi khó khăn xảy ra. Bà tiên còn tượng trưng cho tôn giáo của hy vọng, tôn giáo của ngày mai khi ta chết thì sẽ được vào cõi mà tín ngưỡng đó hứa hẹn. Ki tô giáo, phái tịnh độ của Phật giáo hứa hẹn một cuộc sống trường cửu trên thiên đàng hay một cuộc sống hoàn toàn hạnh phúc ở cõi Phật Di Lặc. Tôn giáo cầu cứu của ngày mai giúp ta giữ vững hy vọng trong cuộc sống vô thường này với điều kiện là ta phải bám vào lòng tin như một cái phao. Cầu mười phần mà chưa chắc được một cũng là một cái khó khăn lớn lao cho lòng tin.
Ông thần thứ ba tượng trưng cho hạnh Phổ Hiền, là thực hành. Ta có thể hiểu đạo thật nhiều nhưng rồi nếu không thực hành, cái hiểu biết trở thành bức tường ngăn cảng ta nhìn thấy mặt thật hay Phật tánh. Hạnh Văn Thù tượng trưng cho đạo xuất thế gian. Ta khó rời thế gian được khi ta còn mang theo cục nợ nặng nề của tham, sân, và si mà ta không nhìn ra. Khi ta không thực hành thì ta không bao giờ nhìn ra được những khuyết điểm của ta và ít chịu tha thứ khuyết điểm kẻ khác. Thí dụ ta hiểu rất rỏ hạnh bố thí nhưng khi thực hành bố thí ta cảm thấy rằng ta không thể cho nhiều được. Lúc đó ta mới chợt nhận ra lòng muốn giữ của của mình. Lúc đó ta mới thông cảm được những yếu đuối của người khác.
Trong cơn tuyệt vọng và đau khổ ở trần gian, ta ngẩn đầu lên trời và hy vọng có một đấng thiêng liêng nào đó thương xót ta và cứu vớt ta ra khỏi cảnh trầm luân này. Tuy nhiên nếu ta bám víu vào niềm tin quá độ thì ta sẽ bị thất vọng nặng nề. Thí dụ như khi bịnh nặng ta tin rằng chỉ cần niệm Phật Di Đà mà không cần đi bác sĩ trị bịnh thì bịnh sẽ khỏi liền. Trên thực tế niệm Phật hay cầu nguyện làm giảm lo âu giúp tinh thần ta an nhàng để bịnh mau lành, nhưng ta vẫn phải đi bác sĩ khám bịnh và uống thuốc. Trên đời này có vô số người niệm Phật hay cầu nguyện khi đang bịnh nặng và đồng thời được điều trị bằng thuốc men, nhưng số người được thỏa nguyện thì không có bao nhiêu. Rồi khi bịnh không hết hoặc nặng hơn thì ta lại đổ lỗi cho đấng thiêng liêng mà ta cầu khẩn không linh rồi mất niềm tin hoặc ta bỏ chùa này mà đi tìm Phật ở chùa khác linh hơn.
Thực hành rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày trong đời lẩn đạo. Thực hành có thể hiểu là áp dụng những hiểu biết đạo lý một cách thật lòng. Thực hành đạo trong đời sống hàng ngày không có gì hào nhoáng hết, nó không cao siêu như pháp xuất thế gian, nó không hào hứng cho ta nhiều hy vọng như người mới mua vé số hy vọng được trúng lô độc đắc. Cái hạnh phúc của thực hành rất đơn giản, đơn giản đến độ tầm thường. Cái gương bị sức mẻ không hấp dẫn bằng cái gương tuyệt đối trong sáng của lý tưởng. Nhưng ta xài được cái gương sức mẻ trong hiện tại. Nó tạm thời làm cho ta bớt cô đơn và bớt đau khổ. Trong thực hành ta hiểu được những yếu đuối của ta vì thế ta mới tha thứ và thương được người. Thực hành có thể coi là một nhịp cầu tương giao, giúp ta nhìn lại mặt thật của ta trong quá khứ và biến cái hy vọng tương lai trở thành thực tế của hiện tai.
Xin tặng quý vị bài kệ:
Quá khứ tương lai
Văn Thù, Thế Âm
Ý nghĩa huyền diệu
Nhưng thật xa xôi
Phổ Hiền hiện tại
Diệu dụng hàng ngày
Giúp ta thực hành
Vòng tròn thời gian.
Ý kiến bạn đọc
25/01/201605:21:47
leetd
Khách
Qua sông, bỏ đò. Dù sao thì từ ngữ vẫn là hữu hạn.
20/01/201619:23:24
wowang
Khách
Xin tác giả cho phép WW chia sẽ phần chính tả. Chữ khuôn mặt là khuôn không có g. Chữ nữa phải là dấu ngã (~), vì dấu ? (nửa) là phân nửa.