Hôm nay,  

Đồng Tiền Trong Chính Trị Mỹ

7/21/201500:00:00(View: 8746)

Bây giờ bà Hillary dự trù sẽ cần... 2 tỷ để vào Nhà Trắng...

Báo chí thời gian qua làm rùm beng về xì-căng-đan hai ông bà Clinton vơ vét tiền đủ kiểu, đặc biệt là qua những vụ mà Việt Nam hiện nay gọi là “chặt chém” trong thù lao đọc diễn văn, và “quyên góp” cho quỹ “từ thiện” Clinton Foundation. Đi đọc diễn văn cho mấy đứa trẻ con trong hướng đạo cũng “hai trăm rưởi, chắc giá, không bớt một xu”. Nhiều người thắc mắc, ngao ngán, sao lại có người tham lam quá mức như vậy. Cả triệu rồi vẫn chưa đủ, vẫn than “nghèo”, “gần phá sản” là sao? Trong khi đó thì đi đâu cũng vỗ ngực tranh đấu sống chết cho “lao động” Mỹ.

Thật ra, nói hai ông bà Clinton ham tiền thì hơi quá đáng vì không chính xác lắm. Hai ông bà đều là nhân vật quyền thế, uy danh hàng đầu, không có nhu cầu tiền bạc nhiều lắm đâu. Suốt ngày được mời mọc yến tiệc, đi tàu bay chùa mà lại là phản lực riêng chứ không phải mua vé rồi ra phi trường ngồi chờ hai ba tiếng đồng hồ như thiên hạ đâu. Đi đâu cũng xe đưa xe đón, khách sạn đài thọ đầy đủ, phục vụ chu đáo hết rồi. Cô con gái cũng lớn rồi, đi đọc diễn văn lai rai cũng lãnh 70.000 đô một bài rồi, cho dù chẳng ai nghe cô nói gì, chỉ cần mượn cái tên “Clinton” thôi.

Thế thì tại sao lại cắm đầu kiếm tiền làm gì? Xin thưa ngay: đó là để có tiền mua cái ghế trong Nhà Trắng. Vâng thật sự là vậy: không có tiền không thể nào đắc cử tổng thống trong cái xứ gọi là “dân chủ” này được.

Chế độ chính trị Mỹ mang tiếng là chế độ “dân chủ” nhất thế giới. Tất cả mọi công dân trên nguyên tắc đều có thể ra tranh cử tổng thống, và tất cả cử tri trên nguyên tắc cũng có thể bầu bất cứ người nào mình muốn làm tổng thống. Thực tế, chỉ là nói nghe cho vui thôi chứ chẳng bao giờ có chuyện lý tưởng vớ vẩn như vậy.

Cách đây không lâu, thời mấy ông Clinton và Bush tranh cử thì mọi việc đều tương đối khá sòng phẳng. Các ứng viên tổng thống đều ra tranh cử trong giới hạn tiền tranh cử do Nhà Nước chu cấp và cử tri đóng góp trong giới hạn nào đó, tương đối bằng nhau, trong những mức phải chăng.

Trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1992 (là năm TĐ Clinton hạ đương kim TT Bush cha), hai chính đảng thu và chi xấp xỉ ngang ngửa nhau, khoản 50 triệu mỗi bên. Đến năm 2000, là năm TĐ Bush –con- hạ PTT Gore, hai bên thu chi trên dưới 200 triệu. Cả hai bên đều nhận trợ cấp không nhiều lắm của Nhà Nước, bằng nhau, cộng thêm một phần tiền do các mạnh thường quân ủng hộ cho đảng gọi là “tiền mềm”, soft money, chứ không phải cho cá nhân hai ứng viên,.

Nhưng đến năm 2008 thì cái đê ngăn nước bị TNS Barack Obama phá vỡ, cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc biến thành cuộc đấu thầu xem ai thu được nhiều nhất rồi chịu chi nhiều nhất. Giải thưởng là Nhà Trắng, bất kể kinh nghiệm, tài cáng, hay mánh mung gì.

Khi TNS Obama mới xuất hiện, chưa ai biết đến thì việc gây quỹ khó khăn, trong khi đối thủ là bà Hillary lại là cái giếng không đáy, nơi mà các đại gia đảng Dân Chủ đổ tiền vào. Ông Obama lên mặt đạo đức, sỉ vả bà Hillary lấy tiền đè người, mua chức tổng thống, kêu gọi bà ngưng gây quỹ cá nhân mà lấy tiền trợ cấp tranh cử của Nhà Nước cho công bằng. Lời kêu gọi của ông dĩ nhiên bà Hillary coi như không nghe thấy gì.

Thế rồi, nhờ tài ăn nói, nhờ đám phụ tá giỏi, và nhất là nhờ hậu thuẫn của khối thanh niên và trí “ngủ” sống trong mộng tưởng ngây ngô, ông nổi lên như niềm hy vọng của Mỹ. Khối này hậu thuẫn từ trí tuệ -khả năng tổ chức, tuyên truyền, vận động,...- cho đến tài chánh. Tiếng tăm nổi lên như cồn, cùng lúc với tiền vào như nước, giúp ông hạ được bà Hillary và ra tranh cử chống ứng viên Cộng Hoà, TNS John McCain.

Bây giờ thì ông McCain dùng gậy ông đập lưng ông, thách thức TNS Obama giữ lời hứa, không dùng tiền mua Nhà Trắng, chấp nhận tiền của Nhà Nước, đâu 80 triệu cho mỗi ứng viên. Để rồi bây giờ đến phiên TNS Obama dùng chiêu “võ điếc” không nghe thấy gì, nhắm mắt nhắm mũi đi gây quỹ. Ông McCain đành cố gắng lẹt đẹt chạy theo.

Kết quả, TNS Obama thu được 730 triệu và TNS McCain thu được 330 triệu. Tổng cộng cả hai bên là hơn một tỷ đô trong khi trong cuộc bầu cử giữa TT Bush cha và TĐ Clinton, tổng cộng chỉ hơn 100 triệu. Số tiền TNS Obama thu được là con số kỷ lục chưa từng thấy, lớn gần gấp mười lần số tiền Nhà Nước chuẩn bị cho mỗi ứng viên. Ở đâu ra số tiền đó? TNS Obama khoe hàng trăm ngàn người dân “thấp cổ bé họng” đã yểm trợ bạc cắc cho ông. Thực tế, các tài liệu về tiền yểm trợ cho thấy tuyệt đại đa số tiền ông thu được là do hai nguồn yểm trợ: các nghiệp đoàn bắt ép đoàn viên phải đóng tiền yểm trợ cho các “tổ chức hành động chính trị” –Political Action Committees hay PAC-, và các đại gia Wall Street với những đại tài phiệt như George Soros, Bill Gates,… Bill Gates cũng là người tài trợ cho đài MSNBC (là sự hợp tác giữa MicroSoft –MS- và NBC), là đài TV phe ta hung hăng nhất.

TNS Obama quên bẵng những lời sỉ vả “lấy tiền đè người”, “mua chức tổng thống”, “công bằng”,… mà ông đã thân tặng bà Hillary. Chuyện quân tử Tàu, giữ lời hứa, là chuyện các chính khách Mỹ, đặc biệt là TNS Obama, chưa bao giờ nghe nói tới, khỏi thắc mắc. Nói như “tonton Thiệu”, đừng nghe những gì Obama nói...

Và rồi như ta đã biết ông đã mua được cái ghế trong Nhà Trắng thật.

Câu chuyện TNS Obama dùng tiền áp đảo đối phương để vào Nhà Trắng đã đi vào lịch sử Mỹ, như là biến cố thay đổi hẳn cấu trúc và phương thức tranh cử chính trị Mỹ: đồng tiền biến thành yếu tố chi phối kết quả bầu cử. Bốn năm sau, TT Obama chi 1 tỷ để tranh cử chống TĐ Mitt Romney. Bây giờ bà Hillary dự trù sẽ cần... 2 tỷ để vào Nhà Trắng.

Tiền bạc đã chi phối cuộc bầu cử tổng thống ngay cả ở cấp bầu sơ bộ.

Năm nay, bên Cộng Hòa chưa chi đã có tới 17 ứng viên ra chạy đua vào Nhà Trắng. Điểm nổi bật đáng nói hiện nay là ứng viên hàng đầu, với tỷ lệ hậu thuẫn nhất nhì, là tỷ phú Donald Trump. Ít người coi ông này như là một ứng viên nghiêm chỉnh, với nhiều hy vọng đắc cử làm đại diện cho đảng Cộng Hòa, khoan nói tới đắc cử tổng thống. Ấy vậy mà ông leo lên hàng đầu. Ông tranh cử bằng tiền túi của mình, rầm rộ khoe có gia tài gần mười tỷ, dư sức lấy tiền đè tất cả các ứng viên khác.

Thậm chí, có tiền cũng chẳng cần phải thắng ở cấp sơ bộ luôn. Như ông tỷ phú Ross Perot, bỏ tiền túi ra tranh cử trực tiếp chống TT Bush cha và TĐ Clinton năm 1992. Cũng thu được đâu 20% phiếu, phần lớn là từ khối bảo thủ của TT Bush, khiến ông này bị chia phiếu, và TĐ Clinton ngáp phải ruồi, vào được Tòa Bạch Ốc.

Dĩ nhiên, ta cũng phải hiểu là đồng tiền cũng chi phối tất cả mọi cuộc tranh cử khác, chứ chẳng riêng gì tranh cử tổng thống. Tuy nhiên, ở những cấp dân biểu, nghị sĩ, hay cấp tiểu bang thì tương đối không lên đến những mức kinh hồn như tranh cử tổng thống.

Tại sao ngày nay tranh cử lại tốn quá nhiều tiền như vậy? Họ cần tiền cho ba mục tiêu chính:

- Sản xuất phim quảng cáo và mua thời gian quảng cáo trên TV và đài phát thanh;

- Mở văn phòng tranh cử tại càng nhiều tỉnh, quận hạt càng tốt, đặc biệt là trong khoảng một tá tiểu bang xôi đậu;

- Thuê các cố vấn vận động tranh cử, các chuyên gia điện toán và internet, marketing, thăm dò dư luận,...

Một điều quan trọng không kém là việc đồng tiền cũng chi phối các luật lệ mà các vị dân cử đưa ra hay không đưa ra.

Chính trị Mỹ có một hiện tượng có một không hai trên thế giới: đó là các chuyên gia của các nhóm vận động hành lang – lobby groups-. Tại quốc hội, có cả ngàn chuyên gia kiểu này, đại diện cho đủ mọi ngành nghề, đủ mọi quyền lợi, đủ mọi địa phương, luôn cả đủ loại người như người già, nữ giới, đồng tính, da đen, da nâu, da vàng, di dân lậu, cựu quân nhân, công giáo, tin lành, v.v... Không thiếu một thứ nào hết.

Và ảnh hưởng của họ cực kỳ mạnh. Trên căn bản, họ có trách nhiệm theo dõi kỹ từng bộ luật được đưa ra, nghiên cứu xem khối quyền lợi của họ có bị đụng chạm hay không. Ngược lại, họ cũng có trách nhiệm xúi các vị dân cử đưa ra những luật mới có lợi cho quyền lợi của nhóm của họ. Giúp cho các vị dân cử có những lập luận, tài liệu, dữ kiện để ủng hộ hay chống một dự luật nào đó.


Đó là nói chuyện lý thuyết. Thực tế là họ dùng đồng tiền để khuynh đảo các vị dân cử. Đút lót cho họ tiền vận động tranh cử, là thứ tiền mà không có ông bà chính khách nào không cần đến. Làm theo ý họ thì có nhiều tiền, không làm theo ý họ là không có tiền tranh cử. Mà tiền nhiều thì hy vọng thắng nhiều, tiền ít thì hy vọng về quê câu cá rất cao.

Nhiều khi tiền mặt được trao trực tiếp. Như trường hợp một ông dân biểu của tiểu bang Louisiana bị FBI bắt với 50.000 đô tiền mặt giấu trong tủ lạnh trong văn phòng của ông. Khiến cho dân tỵ nạn ta bất ngờ có được một ông dân biểu tỵ nạn tại Hạ Viện, đại diện cho một khu vực mà đại đa số là dân da đen.

Lương các vị dân cử chỉ trên 150.000 một năm thôi, nhưng thực tế tất cả các vị dân cử, dân biểu hay thượng nghị sĩ, sau vài năm đều trở thành triệu phú hết.

Dân biểu Cộng Hoà Dennis Hastert, cựu Chủ Tịch Hạ Viện, mới đây bị truy tố ra tòa vì đút lót 3,5 triệu đô cho một người tống tiến ông ta, dọa khui tội lem nhem tình dục của ông cách đây mấy thập niên. Với mức lương trên dưới một trăm ngàn một năm, làm sao có được bạc triệu dễ dàng như vậy?

Cũng có khi đút lót bằng quà cáp, bao máy bay đi du lịch thế giới, hay đi tranh cử, bao đi đánh gôn, yến tiệc dài dài, mời đọc diễn văn với thù lao trên trời. Hay tặng tiền cho “quỹ từ thiện” của họ.

Ảnh hưởng của các nhóm vận động hành lang này không phải là không đáng kể.

Một ví dụ cụ thể nhất là vấn đề kiểm soát súng. Trong thời gian mấy năm gần đây, đã xẩy ra hàng loạt những vụ mấy anh khùng vác súng đi bắn thiên hạ. Mỗi lần xẩy ra chuyện này thì dư luận quần chúng lại ào ào nổi lên đòi ra luật kiểm soát súng đạn. Ngay cả TT Obama, mỗi lần có chuyện, cũng mau mắn chụp cơ hội lên tiếng kêu gọi ra luật kiểm soát súng đạn. Nhưng rồi cho đến nay, sau cả chục vụ, thì ta vẫn thấy tình trạng “vũ như cẩn”, chẳng có luật gì ra được hết. Các vị dân cử lên tiếng than phiền là “khó lắm”, vì đại đa số dân Mỹ vẫn rất mê súng đạn, không có cách nào lay chuyển ý thích này được.

Thực tế, vấn đề không phải là cử tri họ không cho họ ra luật kiểm soát súng đạn, mà chẳng qua, họ đã lỡ chià tay nhận quá nhiều tiền của tổ chức NRA, tức là National Rifle Association, là hiệp hội những người sở hữu súng. Đây là một tổ chức cực mạnh về tài chánh, mỗi năm bỏ ra cả chục triệu tiền “lobby” mấy ông bà dân cử thuộc cả hai đảng. Chúng ta không có thống kê chính xác vì tất cả đều thuộc loại tin “bí mật”, không ai biết được chi tiết rõ ràng, nhưng có thể nói cỡ hai phần ba các vị dân biểu và nghị sĩ Cộng Hoà cũng như Dân Chủ, đều đã nhận được tiền yểm trợ của NRA. Do đó, há miệng mắc quai, họ không cho ra nổi bất cứ một luật nào nhằm kiểm soát sở hữu súng đạn được.

Thực tế trong chính trị Mỹ là các nhóm vận động hành lang phải “cho phép” thì một dự luật mới thành luật được.

Điển hình lớn nữa là Obamacare. Một bộ luật vĩ đại, với những hậu quả tài chánh khổng lồ cho các đại công ty trong ngành y tế như các công ty quản lý bệnh viện, các hãng bảo hiểm y tế, các công ty dược phẩm lớn, chưa kể các phòng mạch của các bác sĩ tư.

Năm 1992, bà Hillary thất bại hoàn toàn, không đưa ra nổi một dự luật để thảo luận trước quốc hội vì bị chống đối mạnh ngay từ trong nội bộ đảng Dân Chủ, cũng như từ các hiệp hội y sĩ, các nhà thương, hãng bảo hiểm, công ty thuốc, qua các nhóm vận động hành lang của họ.

Năm 2009, Obamacare ra đời được một phần là do đảng Dân Chủ kiểm soát được cả Toà Bạch Ốc lẫn cả hai viện quốc hội. Nhưng quan trọng hơn nữa là Obamacare đã không bị các nhóm vận động hành lang đại diện cho các đại công ty ngành y tế chống đối. Tại sao? Lý do giản dị là Obamacare khác với Hllarycare, thực sự rất có lợi cho các đại công ty ngành y tế, do đó, được họ chấp nhận.

TT Obama khi rao bán Obamacare đã long trọng hứa hẹn chi phí y tế, từ bảo hiểm cho đến nhà thương, bác sĩ, thuốc men, sẽ giảm đồng loạt cho tất cả mọi người. Lập luận của ông rất giản dị: Obamacare sẽ giúp khoảng ba chục triệu người có bảo hiểm y tế, tức là giúp cho ngành y tế có thêm ba chục triệu khách hàng. Do con số khách hàng gia tăng như vậy, nên giá cả sẽ giảm mạnh.

Cái lập luận này nghe xuôi tai, nhưng thực tế không phải vậy. Trong trường hợp khách hàng gia tăng mạnh như vậy, giá cả có thể giảm, nhưng với điều kiện là ngành y tế dư thừa bác sĩ, dư thừa nhà thương, dư thừa thuốc men. Thực tế trong xứ Mỹ này không có tình trạng dư thừa đó, cho nên khi khách hàng tăng cả chục triệu người một sớm một chiều, thì sẽ xẩy ra tình trạng khan hiếm bác sĩ, nhà thương, và thuốc men. Và kết quả hiển nhiên là giá cả y tế sẽ bắt buộc phải tăng. Luật cung cầu sơ đẳng. Khi cung vẫn vậy mà cầu tăng vọt thì giá cả bắt buộc phải tăng thôi. Kinh tế thị trường không có đuôi định hướng gì hết là vậy.

Làm con tính sơ đẳng đó, các đại công ty ngành y tế thấy rõ hai chuyện: thứ nhất khách hàng sẽ tăng mạnh, thứ nhì giá cả cũng sẽ tăng mạnh luôn. Và họ được lời to. Do đó, họ đã không chống phá Obamacare, các chuyên gia vận động hành lang chẳng những không ngăn cản, mà trái lại còn ra sức giúp cho Obamacare được thông qua, giúp cho Obamacare trở thành luật.

Muốn thấy bằng chứng là Obamacare có lợi cho các đại công ty ngành y thì chỉ cần nhìn vào thị trường chứng khoán Dow Jones, nhân ngày Tối Cao Pháp Viện biểu quyết không giết Obamacare mới đây, hạ tuần tháng Sáu vừa qua. Ngay sau quyết định, giá cổ phiếu các công ty ngành y, nhất là các công ty quản lý bệnh viện, nhẩy vọt lên từ 10% đến 20% trong vòng vài tiếng đồng hồ, tuy đến cuối ngày thì giảm lại xuống mức vừa phải hơn khoảng từ 5% đến 10%. Những người đầu tư vào ngành y thấy rõ duy trì Obamacare sẽ giúp các công ty này có lời nhiều hơn trong tương lai, và đó là những nơi họ có thể đầu tư lâu dài. Thiên hạ xúm vào mua cổ phiếu của các đại công ty đó, đưa đến mức giá tăng vọt ngay.

Nhìn vào câu chuyện Obamacare ta mới thấy cái tài của phù thủy Obama: ra một luật có lợi lớn cho các đại tài phiệt ngành y, nhưng dấu nhẹm khiá cạnh này nên ít ai nhìn thấy, trong khi quảng bá mạnh khiá cạnh “nhân đạo” giúp cho nhiều người có bảo hiểm sức khoẻ hơn, nên được thiên hạ vỗ tay hoan hô kịch liệt. Một phần cũng nhờ những lươn lẹo, lắt léo, dối trá mà GS Gruber, một trong những người đã vẽ ra Obamacare, đã tiết lộ.

Bà Hillary, một chính khách lão làng cả về tuổi tác lẫn kinh nghiệm chính trường Mỹ, đã nhìn thấy rõ hơn ai hết sức mạnh của đồng tiền trong chính trị, do đó đã hùng hục lo kiếm tiền từ gần cả chục năm nay. Cả hai ông bà kiếm tiền cho riêng mình, nhưng cũng kiếm tiền rất nhiều, hơn hai tỷ, cho quỹ từ thiện Clinton Foundation. Nếu có người nào nghĩ đây chỉ là quỹ tư thiện thuần tuý thì người đó phải là người ngây ngô nhất nhân loại. Mấy ông độc tài giết người không chớp mắt không có dư thừa lòng nhân đạo để tặng quỹ từ thiện bạc triệu chống bệnh AIDS. Với tư cách tổng thống, sao họ không bỏ tiền ra cho ông bộ trưởng y tế của họ để làm việc này tại nước của họ, mà lại phải đưa tiền cho bà Hillary? Họ nhìn thấy rất rõ cái bà chủ nhân quỹ đó có rất nhiều triển vọng làm tổng thống Mỹ. Đấm mõm ngay từ cả mấy năm trước cho chắc ăn mai mốt sẽ có “đồng minh” trong Nhà Trắng. Mặt khác, bà Hillary cũng hiểu rất rõ phân phát tiền bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất để lấy cảm tình và cuối cùng là lấy phiếu thôi.

Và cho đến nay, chưa ai kiếm tiền và phát tiền mạnh bằng bà, và cũng chưa ai có hy vọng ngăn chặn được bà vào Toà Bạch Ốc. Ít nhất là cho đến nay.

Ai dám nói chính trị Mỹ không bị đồng tiền chi phối? (19-07-15)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
Người tị nạn đã không còn được chào đón tại Hoa Kỳ kể từ ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. Ngay trong ngày nhậm chức 20 tháng 1 năm 2025, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp đình chỉ Chương trình Tiếp nhận Người tị nạn của Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program, USRAP) trong vòng 90 ngày. Dù vào tháng 2 năm 2025, tòa án liên bang đã ra phán quyết yêu cầu khôi phục chương trình tái định cư người tị nạn, chính quyền Trump vẫn khẳng định rằng không thể thực hiện điều đó ngay lập tức, do hệ thống tiếp nhận người tị nạn đã bị giải thể gần như toàn bộ.
Trong bài diễn văn dài 90 phút trước Quốc hội Hoa Kỳ, Donald Trump nhắc lại tham vọng “giành lấy” Greenland “bằng cách này hay cách khác.” Trump tuyên bố rằng Greenland có ý nghĩa “sống còn đối với an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ. Dù nhấn mạnh rằng chính phủ của mình “hoàn toàn ủng hộ quyền tự quyết của Greenland,” ông vẫn không quên mời gọi “nếu các bạn đổi ý, chúng tôi sẵn sàng chào đón các bạn gia nhập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp. Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng. Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.