Hôm nay,  

Về Chuyến Mỹ Du Của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng

14/07/201500:00:00(Xem: 5470)

Tuần qua Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng, đã có chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ từ ngày 6 đến 10/7 và được Tổng thống Barack Obama tiếp tại Bạch Ốc, được Phó Tổng thống Joe Biden nâng ly đón mừng trong tiệc trưa tổ chức tại bộ ngoại giao.

Nhiều nhận định về vai trò lãnh đạo của ông Trọng và nghi thức đón tiếp ra sao đã được giới quan sát quan hệ Việt-Mỹ đưa ra, vì trong tổ chức chính quyền Hoa Kỳ không có người đồng nhiệm. Dù chỉ là tổng bí thư đảng, không chức vụ trong chính quyền, nhưng ông Trọng có ảnh hưởng lớn trong các chính sách quốc gia của Việt Nam.

1. Nghi lễ đón tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Những đón tiếp dành cho ông Trọng vừa qua cho thấy lãnh đạo Mỹ đã nhìn nhận – công khai và chính thức – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản cũng là một lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, như thủ tướng và chủ tịch nước.

Nhưng sự kiện Tổng thống Barack Obama đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Bạch Ốc sáng ngày 7/7 không phải là biệt lệ với Hoa Kỳ. Điều không bình thường là dù chuyến đi được công bố từ Việt Nam vào đầu năm, nhưng lịch thăm viếng chỉ được hai bên đưa ra vài ngày trước khi ông Trọng đến Mỹ.

Trong quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ với các nước cộng sản thời còn Chiến tranh Lạnh, năm 1987 Tổng thống Ronald Reagan đã tiếp Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev tại Phòng Bầu dục với nhiều nghi lễ trịnh trọng như quốc yến và đưa đón quân cách tại sân cỏ Bạch Ốc. Đó là biệt lệ Hoa Kỳ dành cho một lãnh đạo cộng sản, vì các nghi thức lễ tân này chỉ có đối với đồng minh chiến lược của Mỹ như Anh, Pháp, Nhật.

Lãnh đạo Việt Nam thăm chính thức nước Mỹ chưa ai được đón tiếp nồng ấm như thế. Hình thức đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tuần qua cũng ở mức không cao hơn hay thấp hơn so với việc đón tiếp các lãnh đạo Việt Nam trước đây, bắt đầu với Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Mỹ năm 2005, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2008 và Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang năm 2013.

Nhìn chung, đây là sinh hoạt đánh dấu 20 năm quan hệ hai nước và chuyến thăm Mỹ của ông Trọng chưa phải là chuyến đi lịch sử với những quyết tâm đưa quan hệ hai nước lên tầm cao hơn mức “đối tác toàn diện” mà hai bên đã đồng ý với nhau sau chuyến thăm của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang năm 2013.

blank
Trong nước dân không được phản đối Trung Quốc xâm lược, người Việt tại hải ngoại lên tiếng thay (ảnh Bùi Văn Phú).

2. Thành quả chuyến đi

Đến Mỹ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không đem theo những hợp đồng thương mại lớn giữa hai quốc gia. Phần nhiều các ký kết trong chuyến đi là thỏa thuận và văn bản ghi nhớ nên không được truyền thông Mỹ chú ý nhiều như chuyến đi Mỹ đầu tiên của lãnh đạo Việt Nam là Thủ tướng Phan Văn Khải vào năm 2005 nhân dịp kỉ niệm 10 năm bang giao hai nước.

Trong chuyến đi của ông Khải đối tác hai bên đã ký nhiều hợp đồng thương mại dưới sự chứng kiến của lãnh đạo hai nước. Ông Khải cũng đã đến rung chuông mở đầu một ngày giao dịch trên sàn chứng khoán ở Phố Wall và đến Đại học Harvard bàn luận về cải cách giáo dục cho Việt Nam.

Để phô diễn tiến bộ hợp tác thương mại, trưa ngày 7/7 trong lúc lãnh đạo Hoa Kỳ tiếp đoàn Việt Nam, một máy bay Boeing 787-9 do Hàng không Việt Nam đặt mua từ những năm trước, và sắp được trao cho Việt Nam, đã bay trên bầu trời Thủ đô Washington để chào mừng quan hệ hai nước.

Chuyến đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đem lại một số kết quả khiêm tốn. Ông chứng kiến lễ ký văn bản của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam vay ưu đãi nửa tỉ đô la để phát triển cơ sở hạ tầng.

Hoa Kỳ và Việt Nam cũng ký thỏa thuận cho phép mở Đại học Fulbright tại Việt Nam, ký các hiệp định hợp tác về chính sách thuế và chống trốn thuế, về an ninh y tế toàn cầu, biến đổi khí hậu, đối phó với đại dịch tiềm năng.

Ngoài ra là các biên bản ghi nhớ của nhiều bộ và ban ngành khác nhau. Giữa bộ quốc phòng Hoa Kỳ và Việt Nam có biên bản ghi nhớ về hợp tác giữ gìn hoà bình thế giới trong khuôn khổ hoạt động của Liên Hiệp quốc.

Vài năm qua, đặc biệt là từ hè năm ngoái khi Trung Quốc đem giàn khoan HD-981 vào vùng biển tranh chấp với Việt Nam thì Hà Nội đã tìm sự hậu thuẫn từ phía Mỹ. Vì quyền lợi của Hoa Kỳ, lãnh đạo hành pháp và lập pháp Mỹ đã nhiều lần lên tiếng phản đối Trung Quốc gây căng thẳng trên Biển Đông.

Vấn đề này đã được thảo luận giữa Tổng Bí thư Trọng và Tổng thống Obama. Tuy nhiên thông cáo chung không hề nhắc đến Trung Quốc mà chỉ kêu gọi các bên tranh chấp giải quyết xung đột trong tinh thần hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, khuyến khích các quốc gia liên hệ tiến tới một bộ quy tắc ứng xử Biển Đông.

Sự việc đó nói lên một điều là Hà Nội e ngại phản ứng của Trung Quốc vì nếu bản thông cáo chung nêu danh nước này, có nghĩa rằng Hà Nội đã đi ngược lại với chủ trương đã đưa ra là không liên minh với một nước để chống lại nước thứ ba.

3. Tương lai quan hệ Việt-Mỹ

Qua chuyến đi của ông Trọng, cũng như các chuyến thăm Hoa Kỳ trước đây của lãnh đạo Việt Nam, một lần nữa Hà Nội mong muốn được Washington công nhận là Việt Nam có nền kinh tế thị trường, trong khi Điều 51 Hiến pháp Việt Nam lại ghi rõ: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Để được cho là có nền kinh tế thị trường sẽ tùy thuộc tiến độ cải cách kinh tế của Việt Nam trong tương lai và việc ký kết Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP.

Nếu Việt Nam cùng tham gia TPP với Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan, Chile, Brunei, Singapore, Peru, Malaysia, Mexico, Canada và Nhật, Hà Nội phải giảm trợ giúp công ty quốc doanh, phát triển nền kinh tế tư nhân, cho thành lập công đoàn độc lập và cắt giảm nhập khẩu nhiều mặt hàng, nhất là tơ sợi từ Trung Quốc. Đây là những điều kiện khó cho Hà Nội vì ảnh hưởng sâu đậm của Bắc Kinh đối với kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong những tập đoàn kinh doanh nhà nước đang được coi doanh nghiệp chủ đạo của nền kinh tế, như ghi trong hiến pháp, và vì theo hệ chính trị cộng sản công nhân không được thành lập công đoàn độc lập.

Hiện nay Việt Nam nhập hàng từ Trung Quốc trị giá 40 tỉ đô-la một năm, xuất sang Trung Quốc 15 tỉ, trong khi giao thương với Mỹ thì ngược lại, Việt Nam xuất sang Mỹ hơn 30 tỉ trong khi nhập chỉ 6 tỉ. Cắt giảm mức nhập cảng từ Trung Quốc và tăng nhập từ Mỹ cũng là một quyết định khó cho Hà Nội vì điều đó biểu hiện xoay trục kinh tế về phía Mỹ của Việt Nam.

Theo một nghiên cứu của East-West Center từ Đại học Hawaii, sau khi gia nhập TPP, trong vòng 10 năm mức xuất khẩu của Việt Nam đến những quốc gia thành viên sẽ tăng lên 68 tỉ đô-la và GDP của Việt Nam sẽ tăng 10.5%.

TPP là một hiệp định có tính bao vây kinh tế Trung Quốc nên Bắc Kinh đã đưa ra con đường tơ lụa trên biển để làm đối trọng.

blank
Hải ngoại luôn yểm trợ cho những người tranh đấu cho tự do dân chủ ở quê nhà (ảnh Bùi Văn Phú).

4. Bao giờ Tổng thống Obama thăm Việt Nam

Trong chuyến thăm Mỹ ông Trọng lập lại lời mời Tổng thống Barack Obama sang Việt Nam. Lãnh đạo Mỹ đã nhận lời, nhưng chưa xác định khi nào mà chỉ nói sẽ đi thăm trong tương lai.

Bao giờ Tổng thống Obama thăm Việt Nam và quan hệ Việt-Mỹ có xích lại gần nhau hơn tùy thuộc thái độ và hành động của Hà Nội qua các đối thoại về quốc phòng, an ninh, nhân quyền đã được ông Trọng thẳng thắn trao đổi với lãnh đạo Mỹ.

Trên thực tế, Hoa Kỳ hiện có cam kết chiến lược với 60 quốc gia, chiếm một phần tư dân số thế giới. Ở Đông Á đã có Nam Hàn, Nhật, Philippines, Đài Loan, Singapore, thêm Việt Nam sẽ tốt hơn cho chính sách xoay trục của Mỹ. Còn không cũng không quan trọng vì lúc này “Việt Nam cần Mỹ hơn là Mỹ cần Việt Nam”, như nhận định của Dân biểu Liên bang Chris Smith, một thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện trong phiên điều trần về hồ sơ nhân quyền Việt Nam tháng trước.

Nhân chuyến thăm Mỹ của lãnh đạo Việt Nam, hai nhật báo lớn của Mỹ là tờ Washington Post và New York Times đã có những bài xã luận nêu quan điểm là Hà Nội cần có những cải tiến nhân quyền trước khi được gia nhập TPP hay có chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Barack Obama.

5. Trung Quốc và quan hệ Mỹ-Việt

Sự kiện một lãnh đạo Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ và ngược lại một tổng thống Mỹ đến thăm Việt Nam đều là dấu chỉ quan hệ hai nước ngày càng thắm thiết hơn. Điều đó làm Trung Quốc khó chịu.

Trước khi đi Mỹ, ông Nguyễn Phú Trọng đã đến Bắc Kinh và Trung Quốc thường xuyên đưa ra cảnh báo về hệ quả xấu nếu Hà Nội xoay trục về phía Mỹ.

Một thăm dò mới đây của PEW cho thấy gần 78% người Việt có cái nhìn tốt với Hoa Kỳ, so với Trung Quốc chỉ 19%. Như thế sau chuyến đi Mỹ của ông Trọng, Hà Nội sẽ có những bước đột phá để nâng quan hệ Mỹ-Việt lên mức cao hơn hay không? Hay vẫn như quá khứ cho thấy, Hà Nội khó có thể qua mặt Trung Quốc trong việc phát triển quan hệ với Hoa Kỳ vì hơn hai thập niên qua, kể từ Hội nghị Thành Đô giữa lãnh đạo Bắc Kinh và Hà Nội vào đầu thập niên 1990, Việt Nam luôn đi sau Trung Quốc trong các phát triển quan hệ với Mỹ, từ kinh tế thương mại đến xã hội chính trị.

Nhân dịp 20 năm quan hệ Việt-Mỹ, cựu Tổng thống Bill Clinton đã đến Hà Nội hôm đầu tháng 7 để dự liên hoan kỷ niệm bang giao hai nước do Đại sứ quán Mỹ tổ chức. Tổng thống Clinton là người đã đưa ra quyết định bang giao với Việt Nam cách đây 20 năm. Phát biểu dịp này Đại sứ Mỹ Ted Osius mong có những sinh hoạt kỷ niệm bang giao hai nước được tổ chức tại khắp các tỉnh thành Việt Nam.

Đại đa số dân Việt ngày nay thích Mỹ nhưng đề nghị của Đại sứ Osius không biết có sẽ được các chính quyền địa phương hưởng ứng không vì bí thư tỉnh ủy không phải ai cũng muốn kết thân hơn với Mỹ và họ là những người sẽ bầu lãnh đạo trong đại hội đảng vào đầu năm tới.

Chuyến đi Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một lãnh đạo giáo điều thân Trung Quốc, có giúp cho quan hệ Mỹ-Việt thăng tiến hơn thì phải chờ xem.

Năm 2005 Thủ tướng Phan Văn Khải đến rung chuông mở cửa một ngày giao dịch cổ phiếu tại Phố Wall nhưng kinh tế Việt Nam đến nay vẫn còn định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông cũng đến Đại học Harvard bàn về cải cách giáo dục, nhưng hệ thống đại học Việt Nam nay vẫn còn lỗi thời vì nặng tính xã hội chủ nghĩa.

Năm 2008, sau chuyến đi Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thảo luận về việc mở thêm tổng lãnh sự quán ở Houston và Đà Nẵng và đưa tình nguyện viên Peace Corps đến Việt Nam giảng dạy Anh ngữ.

Năm 2009 Việt Nam đã mở thêm cơ sở ngoại giao tại thành phố Houston, bang Texas nhưng Hoa Kỳ đến nay vẫn chưa có lãnh sự quán ở miền Trung Việt Nam. Chương trình Peace Corps đến nay vẫn chưa hoạt động tại Việt Nam.

Mấy tháng trước có thông tin không chính thức là sau chuyến đi Mỹ của Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang, Hà Nội đã đồng ý cho Hoa Kỳ mở chương trình Peace Corps. Nếu đúng thế, Việt Nam sẽ có tình nguyện viên Peace Corps đến làm thiện nguyện như tại nhiều nước quanh vùng, như tại Philippines từ năm 1961, Thái Lan 1962, China 1993 và Cambodia 2006.

Đây là tổ chức thiện nguyện do cố Tổng thống John F. Kennedy thành lập từ năm 1961 và đã đưa hơn hai trăm nghìn thanh niên Mỹ tình nguyện đến 140 quốc gia trên thế giới làm việc trong các lãnh vực từ giáo dục, y tế đến chăn nuôi, nông nghiệp, ngư nghiệp, phát triển cộng đồng và kỹ thuật.

Việt Nam sẽ có xoay trục về hướng Mỹ hay không? Nếu lịch sử là nhân chứng thì khó cho Việt Nam đổi hướng vì ảnh hưởng của láng giềng khổng lồ phương Bắc. Năm 1978 khi Hà Nội ký kết hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô và gia nhập khối kinh tế Comecon, Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một bài học vào đầu năm 1979.

Lãnh đạo Việt Nam luôn quan ngại sẽ bị Trung Quốc vả cho, nếu họ quyết định nghiêng về phía Mỹ.

blank
Người Việt ở California cùng với người Philippines xuống đường phản đối Trung Quốc lấn biển, chiếm đảo (ảnh Bùi Văn Phú).

6. Quan hệ của nhà nước với người Việt tại Mỹ

Trong các chuyến thăm Hoa Kỳ, lãnh đạo Việt Nam thường quan tâm nhắc đến cộng đồng 1.5 triệu người Việt tại Mỹ. Nhưng quan hệ giữa khối người Mỹ gốc Việt với nhà nước cộng sản Việt Nam không được như lãnh đạo mong muốn.

Nếu quan hệ Việt-Mỹ phức tạp về nhân quyền thì quan hệ giữa nhà nước và cộng đồng người Mỹ gốc Việt cũng phức tạp không kém, căn bản cũng vì quyền tự do của người dân ở một đất nước tự do dân chủ, trong khi Hà Nội vẫn coi những công dân gốc Việt tại một nước sở tại như người dân còn ở trong nước, không muốn họ có những phản biện, suy nghĩ khác đối với các chính sách của nhà nước.

Trên các báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, An ninh Thế giới thường có lập luận rằng Hoa Kỳ đã bang giao, thừa nhận chính quyền Hà Nội thì người Việt sống ở Mỹ không còn lý do gì để chống. Hà Nội đã đánh tráo chính quyền, đảng cộng sản với tổ quốc để kết án những ai có quan điểm bất đồng – dù là người sống trong hay ngoài nước – là những người chống phá đất nước, phản bội tổ quốc.

Lãnh đạo cộng sản Việt Nam, với đầu óc độc tài đảng trị, cố tình không hiểu được rằng dân Mỹ có quyền ủng hộ hay phản đối bất cứ một chính sách nào của chính phủ, đối nội cũng như đối ngoại. Quốc hội hay tổng thống Mỹ có những chủ trương, chính sách ra sao, cao lắm là được sự đồng thuận của 60% dân, còn lại 40% là bất đồng và tiếng nói của dân thể hiện qua báo chí, truyền thông, qua xuống đường biểu tình, qua tranh cử, qua phiếu bầu chọn đại diện mỗi hai năm hay bốn năm.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong buổi nói chuyện ở Mỹ vừa qua đã thừa nhận chính sách độc tài độc đảng tại Việt Nam. Khi được hỏi về những tù nhân chính trị đang bị giam cầm, ông Trọng, cũng như những lãnh đạo khác trước đây chỉ lập lại một điều là Việt Nam không có tù chính trị hay tù nhân lương tâm, không ai bị giam tù vì tôn giáo hay phát biểu quan điểm bất đồng, chỉ có người vi phạm pháp luật Việt Nam mới bị trừng trị.

Luật hình sự Việt Nam với các điều 79, 88 hay 250 là những điều luật phản tiến bộ thường được Hà Nội đem ra để truy bức, bắt giam những người lên tiếng chỉ trích nhà nước. Nhiều quốc gia văn minh, các tổ chức nhân quyền trong suốt hơn hai mươi năm qua đã khuyến cáo Việt Nam thay đổi hay bỏ đi những điều luật phản dân chủ như thế.

Trong những phát biểu tại Mỹ, ông Trọng nhắc đến việc Hoa Kỳ tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam. Điều này không có gì lạ trong bang giao quốc tế. Nhưng khi người dân một nước lên tiếng thì Hoa Kỳ sẽ đứng về phía nhân dân nước đó và yêu cầu chính quyền không nên dùng vũ lực can thiệp. Vì thế việc dân trong nước đứng lên đòi hỏi các quyền tự do căn bản như tự do phát biểu, hội họp, tự do báo chí, sinh hoạt tôn giáo được người Việt hải ngoại và thế giới quan tâm ủng hộ.

Để tìm sự ủng hộ của người Việt hải ngoại, một thập niên trước Hà Nội đã ban hành Nghị quyết 36 kêu gọi xóa bỏ chính kiến quá khứ, mời gọi người Việt về thăm quê hương và đầu tư.

Mỗi năm có hơn nửa triệu người về thăm quê hương, đông nhất vào dịp Tết và hè. Về đầu tư trong nước thì sân chơi thương mại ở Việt Nam chưa được bình đẳng và tham nhũng hối lộ lan tràn nên người Việt hải ngoại còn bị giới hạn và gặp khó khăn.

Công ty Vietnam Waste Solution của ông David Dương là một thí dụ. Là một doanh nhân thành công tại Mỹ về công nghệ rác trong gần ba mươi năm, từ mười năm qua ông David đã đem kiến thức và tài chánh về để xây dựng lên khu xử lý rác và chất thải Đa Phước ở ngoại ô Sài Gòn. Trong những năm qua Công ty Vietnam Waste Solution được coi là tiêu biểu cho sự thành công của người Việt từ Mỹ về đầu tư.

Nhưng vài tháng nay truyền thông trong nước như báo Một Thế giới, báo Người Tiêu Dùng đã có hàng loạt bài viết mà theo người điều hành công ty cho biết đó là những hình ảnh và thông tin sai sự thực nhằm hạ uy tín hoạt động của California Waste Solution tại Hoa Kỳ và Vietnam Waste Solution tại Việt Nam. Ban điều hành công ty đã khiếu nại đến các cơ quan thông tin, tuyên giáo và ngoại giao của Việt Nam để yêu cầu can thiệp.

Sau một thập niên thi hành Nghị quyết 36, về mặt kinh tế, đã có bà con ở Mỹ về đầu tư, mua nhà. Người Việt ở Mỹ nay được ra vào Việt Nam mà không phải xin thị thực visa trong ba hay năm năm.

Nhưng về chính trị họ vẫn có những đòi hỏi cho tự do, nhân quyền tại Việt Nam phản ánh qua tiếng nói đại diện như Thượng Nghị sĩ Liên bang Barbara Boxer, các dân biểu Loretta Sanchez, Zoe Lofgren, Alan Lowenthal, Dana Rohrabatcher là những dân cử đại diện tiểu bang California là nơi có đông cử tri gốc Việt nhất.

Nhiều hội đồng thành phố tại California đã ra những nghị quyết ngăn cản chính quyền địa phương đón tiếp các phái đoàn nhà nước cộng sản Việt Nam nên các chuyến thăm chính thức Mỹ của lãnh đạo Việt Nam thường chỉ ở bờ Đông Hoa Kỳ từ Thủ đô Washington lên New York.

Lãnh đạo Hà Nội luôn nói họ coi người Việt hải ngoại là khúc ruột ngàn dặm, nhưng Thủ tướng Khải, Thủ tướng Dũng, Chủ tịch Sang đến Mỹ không ai ghé thăm California.

Năm 2007, trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết đến thành phố Dana Point, cực nam của Quận Cam, cách Little Saigon hơn 50 kilô-mét và đã có hàng nghìn người biểu tình phản đối.

© 2015 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
Người tị nạn đã không còn được chào đón tại Hoa Kỳ kể từ ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. Ngay trong ngày nhậm chức 20 tháng 1 năm 2025, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp đình chỉ Chương trình Tiếp nhận Người tị nạn của Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program, USRAP) trong vòng 90 ngày. Dù vào tháng 2 năm 2025, tòa án liên bang đã ra phán quyết yêu cầu khôi phục chương trình tái định cư người tị nạn, chính quyền Trump vẫn khẳng định rằng không thể thực hiện điều đó ngay lập tức, do hệ thống tiếp nhận người tị nạn đã bị giải thể gần như toàn bộ.
Trong bài diễn văn dài 90 phút trước Quốc hội Hoa Kỳ, Donald Trump nhắc lại tham vọng “giành lấy” Greenland “bằng cách này hay cách khác.” Trump tuyên bố rằng Greenland có ý nghĩa “sống còn đối với an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ. Dù nhấn mạnh rằng chính phủ của mình “hoàn toàn ủng hộ quyền tự quyết của Greenland,” ông vẫn không quên mời gọi “nếu các bạn đổi ý, chúng tôi sẵn sàng chào đón các bạn gia nhập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp. Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng. Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.