Hồ Quý Ly và Công chúa Nhất Chi Mai (Huy Ninh) sinh ra: Một người con gái, gả cho Thuận Tông (phụ Vương của Thiếu Đế), hai con trai, con thứ là Hồ Hán Thương được nối ngôi.
Hồ Nguyên Trừng, là con trưởng, vui vẻ nhường ngôi cho em. Ông là một tướng tài và công trình sư giỏi, cho đúc xích sắt kéo băng qua sông Đà, sông Hồng để cản thuyền giặc, rồi cho quân mai phục, bắn tên tiêu diệt thuyền giặc. Ông đã phát minh ra súng thần cơ, giống như súng đại pháo các thế kỷ sau này, phía đuôi súng được đúc kín, có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Súng thần cơ loại nhẹ, tiện dụng việc di chuyển, bắn xa khoảng 700 mét và thần cơ pháo (súng cỡ lớn) để trên thành bắn, nên quân Minh nhiều phen nao núng. Ông nói: “Ta không ngại đánh giặc, chỉ sợ lòng dân có theo hay không thôi”.
Quân Minh hô hào “phù Trần, diệt Hồ”, mà lòng dân còn lưu luyến nhà Trần, ngần ngại họ Hồ, nên họ Hồ không được nhân dân tích cực tham gia, hay hỗ trợ triệt để chống lại ngoại xâm. Năm 1407, quân Minh bắt được: Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng và một số quan lại nhà Hồ. Sau đấy chính ông đã dạy quân Minh về súng thần cơ. Trong Vân Đài loại ngữ, sử gia Lê Quí Đôn viết: “quân Minh mỗi khi hành lễ tế súng, đều làm lễ tế Hồ Nguyên Trừng trước”. Ông là tác giả: Nam ông mộng lục (nói về các nhân vật nhà Trần).
Nhà Hồ làm vua được 7 năm (1400-1407), gồm 2 đời vua:
1 - Hồ Quý Ly (1400-1401). 2- Hồ Hán Thương (1401-1407).
Cảm phục: Hồ Nguyên Trừng
Công trình sư, lỗi lạc chuyên cần
Vũ khí phát minh, giặc ngại ngần
Xích sắt, quân Tàu nao núng vía
Pháo thần, giặc Bắc rẩy run thân!
Cha già bội bạc, nên điêu đứng
Con trẻ trung trinh, khó lữa lần
Xông xáo vẫy vùng, nhưng đại bại
Thắng thua định đoạt, bởi lòng dân!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn