Hôm nay,  

Ánh Sáng Đầu Đường Hầm: ĐGH JOHN PAUL II

15/04/201400:00:00(Xem: 5181)

Nhân dịp lễ phong thánh cố GH John Paul II ngày 27/4/2014 tại Đại Thánh Đường Saint Peter do đương kim GH Francisco chủ tế, hãy ôn lại vai trò then chốt và can trường của ĐGH John Paul II trong việc hỗ trợ Công Đoàn Đoàn Kết Poland và việc yểm trợ cuộc bầu cử tự do đầu tiên tại xứ này; đem đến cuộc giải phóng Poland nói riêng, Đông Âu và chính Liên-xô nói chung; chấm dứt các chế độ chư hầu độc tài thối nát sau gần nửa thế kỷ cai trị với bàn tay sắt; và chấm dứt chính chế độ Soviet và chủ nghĩa cộng sản phi nhân sau gần một thế kỷ tàn sát và khống chế nhân loại.

Ngày 16/10/1978 khi khói trắng hiện ra từ nóc đền thờ Sistine tại Tòa Thánh Vatican; báo hiệu tin lành một Giáo Hoàng mới vừa xuất hiện trong lịch sử gần 2,000 năm của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ; thì cũng tối hôm đó tại Điện Kremlin, trùm KGB Yuri Andropov giận dữ lập đi lập lại trên phôn với mỗi phụ tá rằng “Wojtyla đại diện cho mối đe dọa an ninh Soviet”. Sau đó ông ta điện cho Boris Aristov, đại sứ Soviet tại Poland đòi giải thích “sao chuyện này có thể xảy ra? Sao ông lại cho phép công dân một nước xã hội chủ nghĩa đắc cử Giáo Hoàng?”. Sau khi nghe Aristov đổ trách nhiệm cho “chính trị nội bộ Vatican”, ông ta ra lệnh cho viên đại sứ phải báo cáo đầy đủ chi tiết vụ việc gây “tai họa cho quyền lợi Soviet”. Nhưng đối với cuộc Cách Mạng Nhung ở Đông Âu diễn ra thập niên sau đó, sự đắc cử của Giáo Hoàng John Paul II lại là ánh sáng đầu đường hầm giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức ở Đông Âu và sự sụp đổ của đế quốc bạo tàn cộng sản Soviet.

Bản báo cáo của Aristov về vị tân Giáo Hoàng bắt đầu từ thập niên 1950 khi ngài còn là giảng viên tại Đại Học Jagiellonian và là cây bút sắc xảo của các báo Công Giáo. Bộ công an bản xứ Sluzba Bezpieczenstwa (SB) bắt đầu theo dõi ngài chặt chẽ từ khi ngài được chỉ định làm Tổng Giám Mục TGP Kraków năm 1963 với những bài giảng có tính chất “phản động”. Ngoài ra Andropov còn nhận được điện tín của Vitali Pavlov, trùm KGB tại Warsaw, nghe còn dễ giận hơn nữa “Wojtila có quan điểm cực kỳ chống Cộng-sản. Tuy không công khai đối nghịch hệ thống xã hội chủ nghĩa song ông ta chỉ trích đường lối mà các cơ quan chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân hành xử”.

Ít ngày sau, Andropov và phụ tá Viktor Chebrikov trình bày cho ban lãnh đạo Soviet kế hoạch tối mật để chống Vatican bằng tuyên truyền và gián điệp. Chỉ huy trưởng về an ninh tại Vatican, Camillo Cibin đã hai lần tịch thu được các máy nghe lén đặt tại các nơi mà vị tân Giáo Hoàng có mặt thường xuyên như phòng ngủ, văn phòng riêng, văn phòng chính (còn gọi là thư viện) nơi diễn ra các cuộc hội đàm.

Khác với kẻ tiền nhiệm Stalin với câu hỏi nổi tiếng “Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn quân?”; lần này câu hỏi của Andropov là “Liệu Giáo Hoàng này có tung ra cuộc thánh chiến ồ ạt chống lại chủ nghĩa xã hội không?”. Trên thực tế, giáo hội Công giáo Nga và Đông Âu đã bị đàn áp triệt để suốt hai thập niên 1940 và 1950 khiến không có lãnh tụ tôn giáo nào có thể chống lại chế độ. Vài vị can đảm “tử đạo” thì đã bị tù đày, tra tấn và giết chết như ĐHY Mindszenty của Hungary. Tòa Thánh Vatican ngay từ đầu cuộc chiến tranh lạnh đã hòa hoãn với người Cộng-sản, nhất là dưới triều đại của Giáo Hoàng Paul VI, người đã tiếp kiến Việt Cộng thay vì tiếp người đại diện thể chế dân chủ đệ nhị Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam.

Mặc dù phần lớn binh lính Poland chiến đấu trong hàng ngũ Đồng Minh của Tướng Wladyslaw Anders hồi hương bị Stalin thảm sát sau Thế Chiến II, chế độ Soviet tương đối nương tay với Poland hơn với các chư hầu khác trong vùng khi mà hơn 10% dân Hung bị tàn sát! Gíao Hội Công Gíao Poland cũng được hưởng phần nào độc lập hơn; các chủng viện đào tạo đủ linh mục và còn cung cấp giáo sĩ cho châu Á và châu Phi nữa. Một nửa đảng viên Cộng-sản công khai dự thánh lễ Misa hàng tuần. Sau chuyến thăm viếng Poland hồi đầu thập niên 1970, triết gia Pháp thân Cộng Jean Paul Sartre đã phải khen Poland là nơi mà “các ngày lễ Công giáo được xem là quốc lễ” và là nước chư hầu duy nhất “dân chúng có thể mua bán dollar Mỹ” (nhưng dĩ nhiên không được làm của) và “dân chúng có thể nói tiếng Anh hay Đức với bồi bàn, tiếng Pháp với đầu bếp”. Vị tân Giáo Hoàng còn hiểu tận gốc sự thật từ lòng dân tộc và quê hương của chính ngài; không như những lời tâng bốc thiển cận nhìn từ nhãn quan thân Cộng của người nói.

Sự đắc cử của ngài khiến các lãnh tụ cộng sản xốc bao nhiêu thì lại khiến dân ngài ngạc nhiên thích thú bấy nhiêu! Bản thân ngài tin rằng Thiên Chúa chọn ngài có nhiều mục đích mà giải phóng sự thống khổ của quốc gia ngài là một. Sự thống khổ của bản thân ngài là trắc nhiệm mà Thiên Chúa đã dùng để tín nhiệm và trao trọng trách lớn cho ngài: Mồ côi mẹ năm tám tuổi, anh Edmund (không còn anh chị em nào khác trong gia đình) chết ba năm sau đó, cha tử trận trong cuộc chiến và đời chủng sinh “chui” dưới chế độ chiếm đóng Đức Quốc Xã! Ngay trong hàng ngũ lãnh đạo CS Poland cũng có người thầm hãnh diện về sự đắc cử này. Chỉ có Edward Gierek trên cương vị Tổng Bí Thư đảng Cộng -sản Poland thì phải đánh điện cho Kremlin qua Vadim Zagladin rằng “Cũng may mà Wojtyla rời đi Roma chứ còn ở Poland, ông ta sẽ là một tai họa. Ông ta sẽ gây khó khăn cực kỳ cho chúng tôi. Ở Roma, ông ta sẽ ít nguy hiểm hơn... mà không chừng còn hữu dụng là đàng khác. Rốt cuộc, thế nào ông ấy chả ‘xuất khẩu’ nhiều tư tưởng và suy nghĩ hấp thụ từ chủ nghĩa cộng sản!”

Một trong những việc đầu tiên vị tân Giáo Hoàng thực hiện là về thăm quê hương ngài. Đầu năm 1978, Giáo Hoàng John Paul II cử các viên chức quốc gia Vatican thương lượng với chế độ Warsaw để dàn xếp chuyến viếng thăm đầu tiên này. Chế độ tuy rất muốn từ chối nhưng sợ mất lòng dân; vả lại quan thầy ở Kremlin cũng phải đành chấp thuận một cách miễn cưỡng. Tổng Bí Thư Leonid Brezhnev nói với Gierek “hãy nghe tôi, đừng dành cho Giáo Hoàng bất cứ cuộc tiếp tân nào; chỉ gây rắc rối mà thôi!”. Và khi trả lời Gierek về vấn đề an ninh; không thể cấm dân chúng cả nước hành hương, Brezhnev bảo “Ừ, tùy ý nhưng phải cẩn thận kẻo hối hận sau này!”.

Thực ra bọn lãnh đạo u mê của Poland đã phải hối hận ngay khi bánh xe chiếc Boeing Alitalia của Ý đáp xuống phi đạo thủ đô hồi 11 giờ sáng thứ bảy 2/6/1979. Vị Giáo Hoàng xuống thang máy bay quỳ hôn đất mẹ rồi đứng vươn tay ban phép lành trong tiếng hoan hô vang trời lở đất của đám đông thần dân ngóng chờ dưới nhiệt độ nóng trên 40 độ C. Dọc đường vô số dân chúng chờ hàng nhiều giờ để được tận mắt nhìn thấy vị Giáo Hoàng người Ba-lan đầu tiên trong lịch sử dân tộc và Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ. Chuyến viếng thăm của ngài đã chứng minh lòng trung thành của dân chúng đối với Giáo Hội sau ba thập niên bị áp bức mà không bị lay chuyển; điều mà đảng và chế độ cộng sản không thể mơ có được! Một phần ba dân chúng cả nước ra đường chào đón ngài khắp các nẻo đường ngài đi qua. Trên hai triệu tín đồ dự các thánh lễ ngoài trời do ngài chủ tế. Bài giảng ngoài trời trong thánh lễ cuối cùng tại thủ đô Kraków hôm 10/6/1979 quy tụ được đám đông chưa từng có trong lịch sử Poland!

Mặc dù các giới chức của Vatican cam kết trước với chế độ rằng bài giảng trong thánh lễ này sẽ không có điểm nào chống cộng sản; nhưng giáo dân cũng như cán bộ của chế độ đều hiểu được vị Giáo Hoàng muốn gởi gấm điều gì: “Tôi đến để nói về phẩm giá của con người, về đe dọa đối với con người, về các quyền làm người; những quyền bất khả nhượng vốn dễ bị chà đạp - bởi con người”. Ai cũng hiểu ý ngài muốn ám chỉ “con người” nào bị áp bức và “con người” nào đang áp bức kẻ khác! Ngài đã giữ đúng lời hứa không đụng chạm (danh tánh) cá nhân hay chế độ nào cả!

Để giảm thiểu phần nào sự thực, đài truyền hình của chế độ đã chống trả yếu ớt bằng cách chỉ chiếu sơ qua hình ảnh cử tọa gồm các bà sơ và những ông già bà lão mộ đạo trên màn ảnh TV. Nhưng dân chúng thấy sự thật khác hẳn ngoài đường phố. Họ không thể bỏ qua cơ hội chiêm ngưỡng “ngàn năm một thuở” mà bao thế hệ trước và có thể sau này của mình không có được. Người mù chữ cũng vẫn hiểu được bài giảng của ngài “tôn vinh Mẹ Thiên Chúa và phỉ nhổ lũ hoang sói” ra sao! Chưa kể bài giảng; chỉ sự trở về hùng tráng của người con dân Karol Wojtyla với đất mẹ và dân tộc cũng đủ gây tử thương cho chế độ; như nhận xét của Bộ Trưởng Quốc Phòng Poland lúc bấy giờ, Tướng Wojciech Jaruzelski, sau làm Tổng Thống và chứng kiến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ. Chế độ ấy đã phải ngậm đắng nuốt cay chấp nhận chuyến viếng thăm để nghe vị “Giáo Hoàng có mấy sư đoàn quân?” (lời Stalin) kêu gọi rõ ràng không phải để hòa giải với chế độ mà để kháng chiến chống lại chế độ áp bức. Cuộc kháng chiến ấy mở đầu chỉ mấy tháng sau bài giảng ấy, từ Gdánsk!

Ánh sáng đầu đường hầm - vị tân Giáo Hoàng John Paul II của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và bài giảng tòa của ngài tại thủ đô Krakow, vị tân thánh nhân - đã soi tỏ đường đi nước bước của cuộc Cách Mạng Nhung Đông Âu để giải phóng Poland, các nước chư hầu và chính cái nôi của chủ nghĩa Cộng-sản là “đế quốc ác độc” (lời TT Ronald Reagan) Soviet! Ngài sống linh thác thiêng chắc sẽ cầu bầu cho một Poland châu Á của mình, quốc gia Việt Nam được độc lập, toàn vẹn lãnh thổ; dân tộc Việt được tự quyết trong dân chủ, tự do, thanh bình và phú cường.

Hà Bắc
(Tham khảo tài liệu của ký giả Hung Victor Sebestyen và các tài liệu cập nhật khác.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.