Gần dây có rất nhiều lời bàn loạn về các dòng nhạc với đủ màu sắc (?) mà quý vị
có thể tưởng tượng xuất hiện trên mạng ngay sau khi bài phỏng vấn nhạc sĩ Nguyễn
Ánh 9 về việc “mổ xẻ” các hót/hét sĩ của làng âm nhạc Việt trong nước vừa mới
được phổ biến. Tôi thật sự cũng hơi hoang mang khi đọc thấy và tự hỏi làm sao
nhạc lại có nhiều màu như vậy (?). Ly do là vì từ trước tới bây giờ tôi (sinh
ra ở miền Bắc, lớn lên ở miền Nam, và rồi tỵ nạn cs từ năm 1975) chỉ biết vỏn vẹn
có hai dòng nhạc đơn giản: Nhạc Sến và Nhạc Không Sến… Chả thấy có mầu mè nào cả
(!)
Trong “sự nghiệp tay trái” của tôi, tôi đã học được một bài học khá thú vị từ
nhà bình luận thời cuộc nổi tiếng Andy Rooney (đã mất năm 2011 - Chương trình
60 Minutes của CBS News):
“Nếu bạn không biết rõ về một vấn đề gì thì cứ viết về vấn đế đó.”
(If you do not know very well about something, write about it.)
Thành ra, xin nói trước là bài viết này được viết ra từ cái ý tưởng “nếu muốn
biết cái gì?” của ông Andy Rooney.
Nhạc Vàng
Để bắt đầu, không có gì thuận lý hơn là phải kể “Nhạc Vàng” trước, vì qua thời
gian và không gian, nhạc Vàng vẫn luôn luôn là loại nhạc của “bên thực sự thắng
cuộc” trên mặt trận văn hóa. Tôi sẽ chứng minh điều này ở các dòng sau.
Riêng hai chữ “Nhạc Vàng” được dùng lần đầu tiên vào những năm cuối của thập
niên 60 ở miền Nam Việt Nam khi Ban “Nhạc Vàng” của nhạc sĩ Phó Quốc Lân ra mắt
và trình tấu định kỳ trên đài truyền hình Sài Gòn. Sau đó, nhiều hãng phát hành
băng nhạc, đĩa nhạc như hãng Hương Giang, Dạ Lan, Shotguns… cũng có ra những sản
phẩm âm nhạc với danh hiệu “Nhạc Vàng.” Tuy vậy, đối với ngay cả những người sống
ở miền Nam trước năm 1975 (như tôi) cũng không bao giờ để ý đến hai chữ “nhạc
Vàng” cho đến khi cs cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam năm 1975.
Nhạc Vàng thật ra bao gồm rất nhiều thể loại nhạc khác nhau. Được đại chúng
(không phải mấy bố cảnh sát, công an cs) hiểu rộng rãi với nhiều tên gọi khác
nhau như: Nhạc tiền chiến, nhạc lãng mạn, nhạc tình, nhạc êm dịu… và gần đây
tôi thấy có thêm 2 chữ nữa là “nhạc Nhẹ?!” (có nhạc “Nặng” đâu hà?) Nhạc Vàng
có tình quê hương, tình yêu lứa đôi, hoặc chỉ là nỗi niềm riệng tư, cá nhân về
thiện nhiên, cuộc sống và cuộc chiến…
Mặc dầu còn có rất nhiều tranh cãi về ai là nhạc sĩ đầu tiên? Bài hát nào là
bài hát đầu tiên? của nền tân nhạc Việt Nam; nhưng cho tới nay hầu hết những
nhà phê bình âm nhạc đã công nhận nền tân nhạc Việt Nam chỉ thực sự thành hình
vào khoảng năm 1938. Năm này được đánh dấu bởi buổi biểu diễn của nhạc sĩ Nguyễn
Văn Tuyên ở Hà nội. Ông trình bày chính tác phẩm, những bài hát đầu tiên của
ông khi đó qua 3 bài “Kiếp hoa,” “Bông cúc vàng,” và “Anh hùng ca.” Rất tiếc,
những bài hát này chưa có giá trị nghệ thuật cao cho nên đã dễ bị đi vào quên
lãng…
Nhạc Tiền chiến (1938-45) / Nhạc Tình Lãng Mạn (? ~ 1954)
Ngay sau thời kỳ phát khởi, nền âm nhạc Việt đã phát triển ở mức cao độ. Ở thời
kỳ ban đầu (từ cuối thập niên 30 cho đến chiến tranh Việt Pháp bùng nổ - 1945),
hầu hết các ca khúc đều là các bài mang tính chất lãng mạn trữ tình, giàu màu sắc
văn học, trở thành bất hủ… có ảnh hưởng sâu đậm đến các sáng tác của nhiều nhạc
sĩ của các thế hệ sau này. Các bài tiêu biểu là: Con thuyền không bến, Giọt mưa
Thu, (Đặng Thế Phong); Thiên Thai, Trương Chi (Văn Cao); Biệt Ly (Doãn Mẫn);
Khúc yêu đương (Thẩm Oánh); Bóng ai qua thềm (Văn Chung); Lá thư (Đoàn Chuẩn);
Trường ca Hòn Vọng Phu (Lê Thương – Trường ca gồm 3 bài được Lê Thương sáng tác
trong nhiều năm khác nhau).
Dòng nhạc gọi là “Tiền chiến” không kết thúc vào năm 1945. Nó còn bao gồm cả những
bài nhạc sáng tác sau 1945 (Tôi không biết có nên gọi nhạc sau 1945 là nhạc “Hậu
chiến?” hay nhạc “Hội tề?” – tức là thời kỳ Việt Minh đang hoạt động mạnh?)
như: Dư Âm (Nguyễn Văn Tý); Sơn Nữ Ca (Trần Hoàn); Trăng mờ bên suối (Lê Mộng
Nguyên); Làng tôi (Chung Quân), Gửi gió cho mây ngàn bay (Đoàn Chuẩn); Ngày về
(Hoàng Giác)…
Tôi lấy làm lạ là có nhiều bài sáng tác mãi sau năm 1954 cũng được liệt vào loại
nhạc tiền chiến như: Thuở ban đầu (Phạm Đình Chương); Hương Xưa (Cung Tiến),
v.v...
Hình ảnh nhạc hội Chế Linh ở VN.
Nhạc Tình / Tình ca (1954-1975)
Sau năm 1954, csvn khai tử loại nhạc trữ tình ở miền Bắc. May mắn thay, dòng nhạc
lãng mạn này theo nhạc sĩ di cư vào định cư ở miền Nam Việt Nam và được tiếp
tay bởi các nhạc sĩ tài hoa miền Nam tự do. Họ đã soạn ra những sáng tác âm nhạc
giá trị chưa từng thấy như (*): Hoài Cảm (Cung Tiến), Mộng dưới hoa (Phạm đình
Chương), Gọi người yêu dấu (Vũ Đức Nghiêm); Ngàn thu áo tím (Hoàng Trọng); Chiều
tím (Đan thọ); Duyên Thề (Thanh Trang); Hoa soan bên thềm cũ (Tấn Khanh);Suối
tóc (Văn Phụng); Giấc mơ hồi hương (Vũ Thành); Thu sầu (Lam Phương); Tuổi 13
(Ngô Thụy Miên); Các bài không tên (Vũ Thành An); Giọt lệ cho ngàn sau (Từ Công
Phụng); Yêu nhau khi còn thơ (Lê Uyên Phương); Trên đỉnh mùa đông (Trần Thiện
Thanh); Chiều mưa biên giới (Nguyễn Văn Đông); Xin còn gọi tên nhau (Trường
Sa); Nỗi lòng người đi (Anh Bằng), Mưa trên phố Huế (Lê Dinh, Minh Kỳ), Hà nội
ngày tháng cũ (Song Ngọc)… Danh sách nhạc này dài vô tận, tôi không thể liệt kê
ra hết trên mấy trang giấy này. Đây là một kho tàng văn hóa vô cùng quý báu của
Việt Nam.
------------------
(*) Người viết chỉ đủ giấy và thời giờ nêu ra một số các bài nhạc, tập nhạc
(albums) tiêu biểu của một số nhạc sĩ tiêu biểu…
Thời kỳ cấm Nhạc vàng sau năm 1975
Sau năm 1975, danh từ "nhạc Vàng" được csvn dùng để chỉ bao gồm tất cả
những tác phẩm âm nhạc ở miền Nam ra đời trong thời kỳ đất nước chia đôi và
dòng nhạc này bị cấm tuyệt đối trên các phương tiện truyền thông trong nước kiểm
soát bởi chính quyền cs. Cũng như những đề mục văn hóa khác ở miền Nam, âm nhạc
Miền Nam bị gán thêm các nhãn hiệu chính trị là “nhạc phản động” hoặc “đồi trụy”
vì theo cs nhạc Vàng chỉ “ru ngủ,” không thể hiện được “con người xã hội chủ
nghĩa lý tưởng (?).” Kết quả là nhiều sản phẩm văn hóa trong đó có băng
cassette, đĩa nhạc cùng những bài vở tài liệu ghi chép liên quan đến nhạc Vàng
bị đốt, tiêu hủy không thương tiếc, không nương tay. Dầu gì đi nữa, trong thâm
tâm của người dân (đôi khi có cả cán bộ chính quyền cs) trong Nam lẫn ngoài Bắc
vẫn ưa thích nhạc Vàng; vì nhạc Vàng, và chỉ có nhạc Vàng, mới nói lên được
tình cảm cá nhân không bị bó buộc vào tập thể. Nhạc Vàng do đó còn hàm ý
“Vàng,” một quý kim. Người nghe muốn nghe phải nghe lén lút vì nó luôn luôn nói
lên được cái tâm trạng “riêng tư” của con người; trong khi xã hội chủ nghĩa chỉ
cho phép cái ý thức hệ chung của tập thể. Dù phải nghe trộm qua những buổi phát
thanh của VOA, hoặc BBC từ hải ngoại, người trong nước vẫn cố gắng tìm nghe bất
chấp hình phạt của luật pháp. Có thể nói nhạc Vàng vẫn tiếp tục chiếm địa vị
quan trọng trên thị trường âm nhạc và được dân chúng ngày càng ưa chuộng hơn.
(vắn tắt theo Wikipedia).
Ngoài Bắc Việt Nam trong thời kỳ chia đôi đất nước, có ông Nguyễn Văn Lộc ở Hà
Nội, thiên hạ tặng ông biệt danh “Lộc Vàng,” chỉ vì sự đam mê của ông Lộc thích
ca hát nhạc Vàng tới “quên cả cái chết.” Nhạc Vàng khi ấy đang bị “cấm” và bị
coi là “văn hóa đồi trụy.” Nhưng vì quá mê nhạc Vàng, ông Lộc Vàng đêm đêm tụ tập
với bạn bè ở nhà để hát. Ông bị chính quyền cs bắt giam vì tội “tuyên truyền
văn hóa đồi trụy,” bị khép án 10 năm tù và 4 năm quản thúc (tổng cộng 14 năm),
sau được giảm án xuống 8 năm tù và 4 năm quản thúc (12 năm).
Từ sau khi miền Nam Việt Nam bị cs cưỡng chiếm năm 1975, dòng nhạc Vàng (nhạc
Tình) một lần nữa theo người dân tỵ nạn cs ra hải ngoại. Đối với người Việt hải
ngoại thì nhạc Vàng trở thành một dòng nhạc chính trong thị hiếu người nghe nhạc.
Cho mãi đến năm 1982, sau khi thấy nền kinh tế tập trung bao cấp không giống
con giáp nào. Nói cách khác, kinh tế chỉ huy của cs vẫn còn “tụt hậu” xa lắc xa
lơ so với nền kinh tế tư bản; mặc dù qua loa phường cs vẫn luôn tuyên truyền
(mà chẳng có ai tin) là kinh tế tư bản đang đứng bên bờ vực thẳm; Csvn đành phải
gượng gạo, tự mình chửi bố mình, định hướng lại nền kinh tế xhcn thối hoắc để
cùng chạy về cái hướng “vực thẳm” mà tư bản đang đứng bên bờ (?) – cs gọi sự “đổi
mới” (hay đổi cũ?) này là “kinh tế thị trường” - Tuy nhiên, nhờ hết Mỹ cấm vận
và định hướng lại đường lối kinh tế mà nền nhạc Vàng bùng phát trở lại như sóng
vỡ bờ. Csvn lúc này bó tay, vô phương ngăn chặn.
Nhạc Vàng của bên thắng cuộc!?
Thật oái oăm, bẽ mặt cs về cái danh từ “tự sướng” gọi là “bên thắng cuộc.” Năm
2005 tôi có dịp phải trở về Bắc Việt Nam để thăm quê đất tổ kể từ 1954, có
nghĩa là sau 49 vừa di cư vừa tỵ nạn cs. Trong chuyến đi này, tôi bất đắc dĩ phải
tạm trú vài ngày (booking at the last minutes) tại Khách sạn “Lakeside” ở quận
Ba Đình (địa chỉ khách sạn này nằm gần sát ngay bên lăng boác!) Buổi sáng, thức
dậy, đi xuống nhà hàng ăn ở tầng dưới đất của để ăn sáng - cũng nên biết thực
khách chỉ toàn là người Đại hàn, Đài loan và Việt kiều; và dĩ nhiên nhân viên
phục vụ là người Việt - tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nhà hàng, qua dàn âm thanh
“speakers” rất “cơ khí” gắn trên trần nhà, chơi toàn nhạc lính VNCH
(instrumental / nhạc hòa tấu không có lời hát) trước năm 1975. Một vài bài rất
quen thuộc mà tôi đã nghe và thích ngày trước như “Người ở lại Charlie,” “Anh
không chết đâu anh…” Tôi lập lại, khách sạn này nằm trong quận Ba đình, chỉ
cách lăng boác một cú xe ôm thật ngắn.
Cho mãi đến năm 2012 Huy Đức mới xuất bản cuốn “Bên thắng cuộc;” nhưng xem ra,
ngay năm 2005, và ngay tại Ba đình nơi mà boác đang có cái “freak show” lộng kiếng,
tôi đã rõ biết “bên thắng cuộc” là bên nào rồi. Nếu quý vị nếu phải về Việt Nam
vì một lý do nào đó (hy vọng không phải vì lý do làm từ thiện hay đáp lời mời của
chú lùn Nguyễn Minh Triết về Việt Nam để giao hợp – chữ nghĩa lỉnh kỉnh của
vi-xi thay cho “cụm từ” “giao lưu và hợp tác”) thì quý vị sẽ thấy bây giờ, hôm
nay, nhạc Vàng VNCH được trình bày công khai sống (live) hay qua DVD (video) tứ
phía: Concerts, khách sạn, quán ăn, trên xe đò… Công an cs cũng “vô tư” đứng
thưởng thức một cách thích thú mới chết người!
Một thí dụ điển hình khác là “Live show” của ca sĩ cắc kè Chế Linh tại Hà Nội
vào cuối năm 2011.
Quý vị sau khi đã xem qua tấm ảnh quảng cáo “live show” “Huyền Thoại Dòng Nhạc
Tình (nhạc Vàng)” của Chế Linh tại Mỹ Đình – Hà Nội vào cuối năm 2011 để thấy tận
mắt (A picture truly says 1000 words here) sự kiện nhạc “Vàng” đã ngang nhiên
đi vào giữa thủ đô csvn Hà Nội và đè bẹp nhạc “Đỏ” của “bên thắng cuộc?” một cách
rất ngoạn mục.
Chế Linh, và một số ca sĩ hải ngoại về hát ở Việt Nam, không ít thì nhiều cũng
đã làm chính quyền cs đau hơn đau trĩ… Nhạc Vàng qua thời gian đã đi sâu vào
tâm trí của người dân già, trẻ, trai, gái Việt Nam; kể cả dân miền Bắc và nhất
là đám “bộ đội cụ hồ?” Nhạc vàng, và tiếng hát Chế Linh, đã luôn luôn có sẵn
trong nhà dân và ngay cả nhà cán bộ cs mới chết! Có người sống ở trong nước dám
quả quyết là một “ủy viên trung ương đảng, trước là đảng viên thành ủy Tuy Hòa”
ngồi trong xe lúc nào cũng yêu cầu tài xế mở nhạc Chế Linh và phải là bài hát
“Trên 4 vùng chiến thuật” mới bằng lòng. Cs thì làm quái gì mà có “4 vùng chiến
thuật” (cs chỉ có “liền đít” / Liên khu!) Mặc dù con cắc kè Chế Linh trước đây
từng tham gia biểu tình ở Canada, đóng vai người tù ngồi trong cũi của csvn, thế
mà năm 2011 về nước định hát kiếm chút tiền còm cuối đời, lại có can đảm như
ông Lộc Vàng Hà nội, không sợ bị vào tù thật của cs thì tôi phải cho con cắc kè
này một ít “credit” đại loại như một cái bằng tưởng lục “nghệ sĩ ưu tú” gì đó mới
đáng đồng tiền bát gạo.
Nhạc Đỏ
“Nhạc Đỏ” còn gọi Nhạc cách mạng (hay nhạc cắt mạng) là những ca khúc hát về
“cách mạng” thực ra đây là một loạt các bài ca sắt máu nặc mùi sát nhân, cắt mạng
người của csvn, sáng tác để ca tụng bác (chẳng những ca ngợi sự nghiệp kíu lước
của boác mà con ca ngợi cả nhan sắc, cái áo, đôi dép, chòm râu không giống ai của
boác – hình như giống lông gì mọc lộn chỗ - ca tụng đảng cướp ngày csvn, giải
phóng miền Nam, và chủ nghĩa cs khát máu…
Ngoài ra, cs còn gán ghép cho nhạc Đỏ này với nhiều chữ nghĩa đặc trung văn hóa
xhcn dài long thong, kêu rất to nhưng hoàn toàn rỗng tuếch vô nghĩa hoặc tối
nghĩa: chống Mĩ kíu nước, chủ nghĩa mác-lê vô địch, bần cố nông vô sản thành đồng
cách mạng, ba dòng thác cách mạng, mục tiêu giải phóng đất nước sáng ngời, đấu
tranh giai cấp và ngoài ra còn dư chút hơi để ca ngợi cả các lãnh tụ khát máu
cs quốc té nữa mới ly kỳ…
Các bài hát tiêu biểu của nhạc đỏ là: “Cây chông tre,” “Cô gái vót chông,” “Cô
gái Sài Gòn đi tải đạn,” “Tiếng chày trên Sóc Bom bo,” “Trường sơn Đông, Trường
sơn Tây,” “Rừng xanh vang tiếng Talư,” “Như có Boác Hồ trong ngày dzui đại thắng,”
“Hồ chí minh đẹp nhất tên người,” “Boác đang cùng chúng cháu hành quân,” “Lời
boác dặn trước lúc đi xa,” “Đêm nghe tiếng đò đưa nhớ boác,” “Năm anh em trên một
chiếc xe tăng,” “Hò kéo pháo…” Nhịp điệu thì phần lớn loại quân hành dồn dập, lời
hát thì líu lo - nghe phớt qua tưởng là đang nghe hát tiếng tàu… Nếu quý vị nào
đang bị ị chảy (unstoppable diarrhea) thì chỉ cần nghe qua loa loại nhạc Đỏ man
rợ này thì có “khả năng” chuyển qua táo bón cấp tính; khỏi cần dùng thuốc thang
chi cả. Kể cũng tiện cho thời kỳ bao cấp thiếu thốn đủ thứ. Còn nhớ thời kỳ sau
năm 1975 cũng là thời kỳ nghe nhạc Đỏ, nhai bobo sái quai hàm, và táo bón kinh
niên. Ngay nghệ sĩ Văn vĩ cũng đã nhận ra thiên đường cộng sản loại này! Thiệt
tình!!!
Nhờ vào sự giúp đỡ tuyệt vời có một không hai của hệ thống truyền thông loa phường,
nhạc Đỏ đã dần dần biến đa số dân Việt Nam thành một khối người gần như mất cả
nhân tính, man rợ của thời đồ đá bán khai, khát máu một cách lạ lùng loại “Giết,
giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,” hay là “Thề phanh thây uống máu quân thù...
” Điển hình là cả làng hơn 800 dân cư cùng nhận tội giết 2 tên trộm chó ở thôn
Danh Thượng 2, xã Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang… Trong khi dân bị
chính quyên, công an cs cướp hết tài sản ruộng vườn vào ngay giữa ban ngày thì
lại chỉ biết kêu oan…
Sau năm 1982 (sau khi Mỹ hết cấm vận và bắt đầu thời kỳ “đổi mới”) thì nhạc Đỏ
có vẻ đang từ từ xếp hàng cả ngày đi thẳng vào viện bảo tàng tội ác cs… Có cho
thêm tiền thì dân cũng không muốn nghe nhạc Đỏ táo bón phi nhân làm gì; trong
khi dân chúng (và cán bộ cs) có thể dám bỏ tiền hàng trăm đô la mua vé để đi
nghe nghe các ca sĩ “phản động” hát nhạc “đồi trụy.” Như nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9
đã nói: “… rồi sẽ tự động chét bởi vì ‘những gì’ không hay sẽ không thể tồn tại…
Tôi tin tưởng như vậy. Đời tôi không thấy, nhưng đời con đời chau tôi sẽ thấy
điều này…”
Nhạc Xanh (hay Nâu?)
Sau khi đã viết tạm xong hai mục nhạc Vàng nhạc Đỏ;, tôi đã định dừng bút nghỉ
cho khỏe thì anh bạn đồng môn của tôi, anh Trần Trung Chính, có thân mến nhắc
nhở tôi thêm là “ “Này. Vi-xi, ngoài nhạc Đỏ (nhạc cách miệng) còn có một loại
nhạc nữa gọi là nhạc “Xanh.” Anh bạn đồng môn cũng cho biết thêm loại “nhạc
Xanh” này cùng nằm chung với mảng “Nhạc Đỏ” cách mạng của vi-xi; và nó không phải
là nhạc trẻ hay nhạc thiếu niên mà là loại nhạc Xanh cộng sản gồm những bài ca
kêu gọi toàn dân tăng gia sản xuất (!) chứ cũng không phải loại nhạc dạy con
người biết yêu thiên nhiên, biết bảo tồn môi sinh. Chúng ta thấy các bài nhạc
xanh tiêu biểu như: “Mùa Xuân trên nông trường Lê Minh Xuân,” “Hát trên nông
trường xanh,” “Bài Ca 5 Tấn (**),” “Chị Tư 3 Đảm Đang,” “Con Kênh Xanh Xanh...”
Những bài nhạc Xanh hấp dẫn đến nỗi chi sau 3-5 năm không còn thấy ai hát nữa
và chính tác giả còn không nhớ là anh ta đã có những "đứa con tinh thần
xanh lè" như vậy để kêu gọi, thúc đẩy sản xuất phân bắc, phân xanh…
Nhờ giời, qua thời gian tra cứu lỉnh kỉnh về các loại nhạc Vàng, nhạc Đỏ, nhạc
Xanh này tôi có dịp được học hỏi thêm một ít về kỹ thuật pha mầu của ngành họa
(painting). Màu xanh (màu kít ngựa) mà đem trộn với màu đỏ (màu cách mạng / cs)
thì mùi thối sẽ tang gấp đôi chỉ vì kết quả sự pha trộn này sẽ cho ra mầu Nâu
(màu kít bò – bullsh.. color). Thành ra nghiễm nhiên nhạc Xanh ca ngợi sản xuất
- phân bắc phân xanh - trong dòng nhạc Đỏ của cs (nhạc cách mạng) có thể coi
như là đồng nghĩa với “nhạc Nâu” hay “nhạc kít bò” (cũng màu nâu) sau sự pha trộn…
Xanh với Đỏ!
-----------
Ghi chú:
(**) Vào đầu thập niên 70, chương phát triển lúa Thần nông của miền Nam của Bộ
Canh Nông VNCH (hướng dẫn bởi Giáo sư / Tổng trưởng Canh Nông Tôn Thất Trình)
đã đưa năng xuất lúa Thần Nông lên mức thu hoạch trung bình 8 tấn / một Hecta (có
nhiều chỗ lên đến 12 tấn) mà không hề thấy nhạc sĩ miền Nam nào làm lấy một bài
“nhạc Xanh” để ca ngợi thu hoạch 8 tấn… Csvn phải chờ đến cuối thập niên 70
(nghĩa là gần 10 năm sau), vài năm sau khi chiếm miền Nam, mới có bài “Bài ca 5
tấn” ca ngợi mức thu hoạch 5 tấn / Hecta. Xem ra, thì cách mạng đi thụt lùi chớ
có thấy gì là vinh quang?
Nhạc Da Cam (!?)
Tôi cam đoan sẽ có nhiều đọc giả lắc đầu, thắc mắc ngay:
“Cái gì? Màu da cam? Làm quái gì có nhạc màu Da Cam? Cha nội đừng có viết láo lếu
quá nghe!”
Dạ thưa quý vị, tôi chỉ mơ mộng ban ngày, tiên đoán vẩn vơ theo loại chó ngáp
phải ruồi là sẽ có loại nhạc với màu “Da cam” quái đản xuất hiện trong những
ngày sắp tới vì bọn vi-xi xảo quyệt và các tay sai Việt kiều trở cờ mù lòa đang
cổ võ các phong trào “kiều vận” ve vãn, qua các bản nghị quyết mồi chài rất trơ
trẽn v..v.. kêu gọi “xóa bỏ hận thù,” “hòa hợp hòa giải dân tộc,” “trở về góp sức
xây dựng quê hương,” “quê hương là chùm khế ngọt…” và ru ngủ kiểu “Để hận thù
người người lắng xuống …” Cứ theo diễn tiến này thì nhạc Da Cam (do màu Vàng trộn
chung với màu Đỏ) còn có thể gọi là “Âm nhạc hòa hợp hòa giải dân tộc!” sẽ
không còn là chuyện không tưởng (it is not unthinkable!)
_______
Phụ chú:
1- Nhạc sĩ Nguyễn Anh 9 trong bài phỏng vấn “mổ xẻ” các hót sĩ trong nước… có đề
cập đến một chữ “Thanh nhạc.” Chữ “Thanh” (trong “Thanh nhạc”) ở đây có gì dính
dáng gì đến màu sắc. Thanh chỉ có nghĩ là “âm thanh” (Vocal / Human Instruments)
do thanh quản (nói nôm na là cuống họng?) phát ra. Thanh nhạc là cách, là kỹ
thuật trình bày chứ không phải là một loại nhạc.
Thanh nhạc là kiểu nhạc với yếu tố chủ chốt nhất là giọng hát của ca sĩ. Ở đây,
giọng hát của ca sĩ được xem là nhạc cụ chính của bản nhạc. Thanh nhạc có thể
được một hoặc nhiều ca sĩ trình bày, chỉ dùng giọng hát hoặc có phần đệm đại
khái của nhạc cụ. Cũng cần phân biệt với thể loại “a cappella” (loại hát hoàn
toàn không có nhạc đệm) trong đó giọng hát vẫn được xem là tiêu điểm nhưng các
ca sĩ còn dùng giọng hát để thay thế cho toàn bộ nhạc cụ đệm. Các ca sĩ hát
thanh nhạc đôi khi được gọi là “vocalist.”
Chúng ta thấy các ca sĩ miền Bắc Việt Nam hay sử dụng kỹ thuật thanh nhạc. Tại
sao vậy? Vì trước đây các văn công ngành ca hát (thợ hát) của vi-xi đi theo bộ
đội vượt Trường Sơn, vì không có, hay không thể mang theo những dàn âm thanh tốt
nặng nề… phải chú trọng và tùy thuộc nhiều về phần cuống họng có sẵn trong cổ,
khỏi phải đeo nhạc cụ lủng lẳng theo người chi cho mệt xác! (vì còn dành chỗ để
đeo gạo, muối và AK47).
Trái lại, các ca sĩ miền Nam Việt Nam (VNCH) không có ai quan tâm về việc hát
thanh nhạc vì khi phải hát, họ luôn luôn được hát với các dàn âm thanh và khí cụ
tân tiến. Chẳng hạn như dàn âm thanh vĩ đại của các phòng trà ca nhạc, các buổi
đại nhạc hội, hay của các Tiểu Đoàn Chiến Tranh Chính Trị của Tổng Cục Chiến
Tranh Chính Trị; Biệt Đòan Văn Nghệ Trung Ương trực thuộc Bộ Thông Tin Dân Vận…
2- Vì lập trường chính trị riêng, người viết đã chủ ý tránh, hoàn toàn không đề
cập gì đến các sáng tác của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn mặc dù sự sáng tác của
hai nhân vật này rất dồi dào và phong phú về cả lượng lẫn phẩm. Nhiều đọc giả sẽ
cho là nếu không có nói đến nhạc của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn thì đây là một
thiếu sót lớn khi bàn về âm nhạc Việt Nam… Tôi thì lại không nghĩ như vậy. Câu
hỏi của tôi là “Nhạc sĩ có cần phải có đạo đức (chính trị) hay không?” Câu trả
lời của chính cá nhân tôi đã thúc đẩy tôi lấy các sáng tác của Phạm Duy và Trịnh
Công Sơn ra khỏi bài viết nhỏ này. Dù không có nhạc Phạm Duy và Trịnh Công Sơn,
nhưng quý vị cũng đã có quá đủ bài hát để hát cho đến mệt nghỉ rồi.
Trần Văn Giang
Orange County
(Ngày 9/27/2012)