Hôm nay,  

Bệnh Lý Học Về Hán Tộc

02/08/201300:00:00(Xem: 12285)
Hán, Phi-Hán, và bệnh nhận vơ....

Ttừ năm 1918, nhà văn Lỗ Tấn đầy ảnh hưởng của văn học Trung Hoa đã có một lời phán đoán lạnh mình: "tình trạng ngoại thuộc khiến người Trung Hoa mất lương thiện và lương tri".

Chẳng những vậy, cũng trong truyện ngắn "Cuồng nhân Nhật ký" (Nhật Ký Người Điên) ông còn dùng ẩn dụ "người ăn thịt người" để nói về nền văn minh Trung Hoa. Cỗ bàn cho những kẻ giàu có và quyền thế. Theo Lỗ Tấn, Trung Quốc là nhà bếp của những bữa ăn ghê tởm này.

Chúng ta khó nói Lỗ Tấn có chủ trương kỳ thị Hán tộc dù rằng ông được du học bên Nhật và mở tầm nhìn ra các nước tiên tiến Tây phương. Chính là vì hiểu thấu thế giới văn minh mà ông muốn cảnh tỉnh đồng bào bằng lối viết châm biếm và sắc bén của một văn hào.

Có lẽ Lỗ Tấn phát giác bệnh "tâm thần phân liệt", schizophrenia, của Hán tộc, khi họ sống với hai nhận thức và trạng thái tâm lý trái ngược. Những gì đang xảy ra tại Trung Quốc còn cho thấy họ mắc bệnh "tự bế" hay "tự kỷ", autism, tự thu vào chính mình mà khỏi cần biết về sự thật khách quan ở bên ngoài....

Sau bài "Trung Quốc Ngàn Năm - Những nhập nhằng của Bắc Kinh và hiểu lầm của thế giới về Trung Quốc" đăng kỳ trước về ngàn năm đã qua của Trung Quốc, kỳ này chúng ta sẽ tìm hiểu tâm lý phức tạp của Hán tộc từ đó nhìn ra những động thái hiện đại của lãnh đạo Bắc Kinh.

Trải qua ngàn năm cận đại của Trung Quốc, nếu tính từ năm 960 khi nhà Đại Tống xuất hiện đến năm 1911 là khi là Đại Thanh sụp đổ trong cuộc "Cách mạng Tân Hợi", Trung Quốc nằm dưới sự thống trị của các dị tộc phi-Hán, không phải người Hán, trong hơn 600 năm. Những sắc dân mà Hán tộc cho là thấp kém man rợ, như Nữ Chân, Khất Đan, Kim, Liêu, Tây Hạ, Mông Cổ, Mãn Thanh, v.v... đã khuất phục và cai trị Trung Quốc trong một thời gian dài hơn hai phần ba.

Một độc giả Phong Vân có thêm lời bình về bài này, người viết xin chia sẻ nguyên văn:

"Bác Nghĩa chỉ tính từ thời nhà Tống là còn nhẹ tay với Hán tộc đó. Thực chất khi nhà Tấn phải thiên đô về Giang Tả vì Ngũ Hồ loạn hoa thì phía Bắc Trường Giang đã là thiên hạ của người Hồ. Đê Tần của Phù Kiên, Tiền Yên & Hậu Yên họ Mộ Dung Tiên Ti, Bắc Ngụy của Thác Bạt Tiên Ti. Hán tộc chỉ có được phong quang nhờ vào chiến thắng Phì Thủy của Tạ An, Tạ Huyền; thêm vào Lưu Dụ lập nên nhà Lưu Tống Bắc phạt; cùng với Dương Kiên lập nên nhà Tùy. Nhưng cũng chỉ truyền được 2 đời lại để Lý Đường vốn là gốc người Đột Quyết thống nhất Hoa Hạ. Rồi về sau Hậu Tấn Thạch Kính Đường người Sa Đà nhờ quân Khiết Đan vào lật đổ Hậu Đường dâng lên Yên Vân thập lục châu trở thành cục gân gà khó nuốt cho Hán tộc từ Đại Tống trở đi."

Ngày nay, lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh hiển nhiên là không quên điều ấy và cũng biết rằng trong tiềm thức của thần dân là một chuỗi ẩn ức.

Nói về Bắc Kinh, thành phố này chỉ thật sự là kinh đô Trung Quốc từ những thời ngoại thuộc.

Từ Tần Thủy Hoàng Đế (năm -221) đến khi Phổ Nghi nhà Mãn Thanh bị truất năm 1911, trải qua 2132 năm, Bắc Kinh không là kinh đô Trung Quốc trong khoảng 15 thế kỷ. Các triều Hán tộc thời xưa đã chọn Trường An (Tây An ngày nay), Lạc Dương, Khai Phong, hay Nam Kinh, thậm chí Trùng Khánh làm thủ đô. Bắc Kinh chỉ là nơi mà họ lên triều cống các dị tộc man rợ ở mạn Bắc, rồi thành kinh sư của nhà Liêu thuộc tộc Khất Đan (dưới tên Nam Kinh), nhà Kim thuộc tộc Nữ Chân (dưới tên Trung Đô), và nhà Nguyên của dân Mông Cổ (dưới tên Đại Đô).

Vào thời Minh, năm 1402, Yên vương Chu Lệ từ đất phân phong của mình ở đấy đưa quân về Nam Kinh cướp ngôi của cháu lên làm Hoàng đế. Vĩnh Lạc đế mở rộng Bắc Kinh thành kinh đô vào năm 1403. Mà bốn phương không phẳng lặng, hai kinh chẳng vững vàng như văn chương viết lại: trong 276 năm của nhà Minh, từ 1368 đến 1644, Trung Quốc có chừng 300 cuộc chiến! Khi nhà Mãn Thanh từ phương Bắc xuống cai trị toàn cõi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trở thành kinh đô của dị tộc, cho đến ngày nay....

Từ vị trí và vai trò của Bắc Kinh, chúng ta khám phá ra một quy luật, như một nghịch lý: Trong ngàn năm, lãnh thổ Trung Quốc mở rộng dưới thời cai trị của bốn dị tộc Liêu Kim Mông Mãn và co cụm dưới hai thời Tống Minh của Hán tộc!

Dù bị khinh thường, mà bất chấp, các dị tộc đem lại sự huy hoàng và cả tính chất "đa nguyên" cho Trung Quốc với sự đóng góp của nhiều phần tử ưu tú phi-Hán xuất phát từ Tây Á, Trung Á, Âu Châu. Khi Hán tộc lên cầm quyền thì tinh thần duy chủng, chủ nghĩa "Đại Hán là nhất", lại được khôi phục.

Lãnh đạo Bắc Kinh ngày nay vơ lấy cả hai, hiện tượng tâm thần phân liệt: 1) về địa dư chính trị thì những gì các dị tộc chinh phục được, như Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương hay Tây Tạng, đều thuộc về Trung Quốc; 2) về chủng tộc thì Trung Quốc đó là do Hán tộc làm chủ, các sắc tộc khác đều là phó thường dân, được mặc áo đẹp đi vào Đại hội để chụp ảnh tuyên truyền.


Đấy cũng là lúc chúng ta phát giác ra sự dối trá của ngôn ngữ. Quốc hiệu Trung Quốc - quốc gia trung tâm – là sự nhập nhằng tiện lợi. Và "thiên hạ" là khái niệm tuyệt vời, dưới vòm trời này, cái gì cũng thuộc về Thiên triều của Hán tộc! Sự thật thì trong hai phần ba thời gian ngàn năm, Hán tộc mới là sắc tộc bị trị.

Khoảng thời gian đằng đẵng ấy khiến họ phát triển ra khả năng phân thân, ăn nói nước đôi.

Họ lập hội kín, nói một đàng làm một nẻo vì có chính nghĩa sáng ngời là chủ nghĩa dân tộc dưới ách ngoại bang. Gian với địch nghĩa là trung với ta. Riết rồi gian trung khó định, chính tà bất phân. Lỗ Tấn nói không sai! Sau đó, từ năm 1911 trở về sau, mới là chủ nghĩa bài ngoại, một biểu hiện khác của tinh thần duy chủng, được các chế độ cận đại triệt để khai thác.

Hán tộc còn phát huy một huyền thoại khác, là các dị tộc đều được Hán hóa. Chứng cớ là Liêu Kim Mông Mãn đều lại dùng tiếng Hán và áp dụng chế độ cai trị Khổng nho của người Hán.

Thực tế lại không hẳn như vậy. Chế độ cai trị xuất phát từ tư tưởng Khổng nho và cả Hán ngữ được sử dụng như phương tiện củng cố quyền lực trung ương. Các đế chế của dị tộc thiểu số đều dùng phép "trong bá ngoài vương" để cai trị Hán tộc. Bên trong là kỹ thuật chặt chẽ của pháp gia, bên ngoài được tráng men vương đạo của nho gia để bảo vệ triều đình. Ông thầy Khổng tử bị hàm oan khi còn sống. Sau đó, được đề cao hay giáng cấp hoặc đả phá vì những lý do nằm ngoài lý luận nhân trị, vì thuộc về tính toán pháp trị của các đời sau.

Vì thế, cống hiến của Hán tộc không chỉ có chủ nghĩa duy chủng ethnocentrism mà còn có nghệ thuật cai trị độc tôn, được các dị tộc triệt để khai thác - trên đầu Hán tộc.

Và về văn hóa thì quả rằng cuốn Tự Điển thời Khang Hy hay bộ Tứ Khố Toàn Thư vĩ đại thời Càn Long là những đỉnh cao chói lọi cho hậu thế. Nhưng là thành tựu của triều Mãn Thanh làm rạng danh Hán tộc. Cái danh hão....

Chúng ta trở lại chuyện ngày nay và cái bệnh "tự bế" autism của thiên triều Hán tộc tại Bắc Kinh.

Nhìn ra ngoài thì năm 1919, Đế quốc Ottoman sụp đổ trên một dải đất bát ngát vắt qua ba lục địa Âu-Á-Phi sau khi sắc dân Thổ (Turkish) khởi nghiệp từ năm 1299. Khi ấy, dân Thổ có sự chọn lựa. Hoặc là ôm rơm nặng bụng để giữ lại lãnh thổ cũ của Đế chế suy tàn, bên trong có quá nhiều sắc dân, nào Nam Âu, Phi Châu, nào Ba Tư, Á Rập, Ai Cập, v.v.... Hai là gom lại vùng đất truyền thống, nơi tập trung dân số đông nhất.

Họ chọn giải pháp thứ nhì để lập ra Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ và hạ phóng các vùng khác. Năm 1928, họ cũng đưa mẫu tự La tinh vào hệ thống quốc ngữ và giữ lại tiếng Thổ được cách tân, nhưng gạt bỏ ảnh hưởng của ngôn ngữ Ba Tư và Á Rập. Đấy là một cuộc cách mạng mấy trăm năm mới thấy một lần. Trung Quốc thời Mao lại không có tinh thần cách mạng như vậy!

Mao Trạch Đông không làm cách mạng về văn hóa và ngôn ngữ mà chỉ cải cách theo kiểu chắp vá. Và về chuyện lãnh thổ lại có những chọn lựa nửa vời, hậu quả của bệnh tâm thần phân liệt.

Thay vì giải phóng hoặc buông bỏ những khu vực của dị tộc để tập trung xây dựng quốc gia trong vùng đất truyền thống của Hán tộc, Mao đòi giữ hết và nhận hết như lãnh thổ của Hán tộc và thi hành chính sách di dân, dời dân, trong nội địa để bảo đảm cái thế thống trị của Hán tộc.

Ngoại lệ và sự nửa vời là dù Mao đòi lại những phần đất bị liệt cường sâu xé vào đời Thanh sau Hiệp ước Bắc Kinh năm 1860 thì vẫn nhường lại cho Liên Xô, hậu duệ của Đế quốc Nga, một dải đất bát ngát tại khu vực Mãn Châu, đất cũ của các tộc Nữ Chân, Khất Đan, Cao Ly, v.v.... Đó là miền Đông Tartary, kéo dài từ hợp lưu của sông Hắc Long giang (sông Amur) với Ô Tô Lý sông Ussuri) tới đảo Sakhalin và bao trùm lên hai thành phố lớn là Khabarovsh và Vladivostok. Ngoài ra, nhiều dải đất khác cũng bất ngờ được thả nổi, như Ngoại Mông nay là Cộng hòa Mông Cổ, hay Cộng hòa Tyva ở miền Nam Tây Bá Lợi Á.

Cho nên ranh giới của Trung Quốc hiện đại là kết quả của nhiều chọn lựa chập chờn phi lý thời "cách mạng". Những chọn lựa này và chánh sách cải tạo và di dân sau đó mới gây vấn đề nan giải cho một xứ có địa dư đa nguyên mà chính trị độc tôn của một sắc tộc.

Khi nhìn thấy lãnh đạo Bắc Kinh còn xây dựng các khu vực chiếm đóng của dị tộc làm vùng trái độn quân sự, nay lại đòi nhoài mình ra Đông hải của xứ khác, ta hiểu ra tâm lý tự bế hay tự kỷ. Họ bất chấp sự thật khách quan ở bên ngoài mà chỉ nhìn thấy những ham muốn ở bên trong.

Họ ôm rơm nặng bụng và có ngày bị báng khi hết đà tăng trưởng. Là chuyện của 10 năm tới....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Việc cắt giảm chăm sóc sức khỏe để trả tiền cho các khoản giảm thuế sẽ là sai về mặt đạo đức và tự sát về mặt chính trị.” TNS Josh Hawley (Cộng Hòa, Missouri)
Từ năm 1949, tháng Năm được chọn là Tháng Nhận Thức Về Sức Khỏe Tâm Thần (Mental Health Awareness Month – MHAM) ở Mỹ. Đây là tháng mang ý nghĩa kêu gọi cùng nâng cao nhận thức, giảm bỏ kỳ thị và thúc đẩy bảo vệ sức khỏe tâm thần. Theo phúc trình năm 2024 của tổ chức Mental Health America ở Alexandria, Hoa Kỳ thật sự đang trong cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần. Cứ năm người trưởng thành ở Mỹ thì có trên một người đang sống chung với bệnh tâm thần, và hơn một nửa không được điều trị. Gần 60 triệu người lớn (23.8%) mắc bệnh tâm thần trong năm 2024. Gần 13 triệu người lớn (5.04%) có ý định tự tử.
Chiến dịch cắt giảm chi tiêu của chính quyền Trump, vốn đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực từ nghệ thuật đến nghiên cứu ung thư, nay còn bao gồm cả nỗ lực thực hiện mục tiêu lâu dài của Đảng Cộng Hòa: chấm dứt hoàn toàn nguồn tài trợ liên bang cho hai hệ thống truyền thông phục vụ công chúng lớn nhất nước Mỹ: NPR và PBS. Hiện có khoảng 1,500 đài phát thanh và truyền hình độc lập liên kết với NPR và PBS trên khắp Hoa Kỳ, phát sóng các chương trình nổi tiếng như Morning Edition, LAist, Marketplace, PBS NewsHour, Frontline và Nova... Theo dữ liệu từ các hệ thống này, có khoảng 43 triệu người nghe đài công cộng hàng tuần, và mỗi năm có hơn 130 triệu lượt xem đài PBS.
Ngày 30.04.1975 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử cận đại của Việt Nam. Nhưng năm mươi năm sau nhìn lại, dân tộc Việt oai hùng, như vẫn thường tự nhận, đã không có đủ khôn ngoan để ngày chiến tranh chấm dứt thành một cơ hội đích thực để anh em cùng dòng máu Việt tìm hiểu nhau, cùng chung sức xây dựng đất nước.Tiếc thay, và đau thay, cái giá tử vong cao ngất của hơn 2 triệu thường dân đôi bên, của hơn 1triệu lính miền Bắc và xấp xỉ 300.000 lính miền Nam đã chỉ mang lại một sự thống nhất địa lý và hành chính, trong khi thái độ thù hận với chính sách cướp bóc của bên thắng trận đã đào sâu thêm những đổ vỡ tình cảm dân tộc, củng cố một chế độ độc tài và đẩy hơn một triệu người rời quê hương đi tỵ nạn cộng sản, với một ước tính khoảng 10% đã chết trên biển cả.
Bằng cách làm suy yếu các đồng minh của Mỹ, chính quyền Trump đã làm suy yếu việc răn đe mở rộng của Mỹ, khiến nhiều quốc gia cân nhắc liệu họ có nên có vũ khí hạt nhân cho riêng mình không. Nhưng ý tưởng về việc phổ biến vũ khí hạt nhân nhiều hơn có thể ổn định dựa trên nền tảng của các giả định sai lầm.
Tạp chí TIMES kết thúc cuộc phỏng vấn với Tổng thống Trump nhân dịp đánh dấu 100 ngày ông ta quay lại Tòa Bạch Ốc (20/1/2025) bằng câu hỏi, “John Adams, một công thần lập quốc, vị tổng thống thứ hai của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (1797 – 1801) đã nói chúng ta là một quốc gia pháp trị, chứ không phải bất kỳ người nào, Tổng thống đồng ý không?” Donald Trump trả lời: “Chúng ta là một chính phủ do luật pháp cai trị, không phải do con người sao? Ồ, tôi nghĩ vậy, nhưng anh biết đấy, phải óc ai đó quản lý luật pháp. Bởi nên, con người, nam hoặc nữ, chắc chắn đóng một vai trò trong đó. Tôi không đồng ý với điều đó 100%. Chúng ta là một chính phủ mà con người tham gia vào quá trình thực thi luật pháp, và lý tưởng nhất là anh sẽ có những người công chính như tôi.”
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.