Hôm nay,  

Bệnh Lý Học Về Hán Tộc

8/2/201300:00:00(View: 12356)
Hán, Phi-Hán, và bệnh nhận vơ....

Ttừ năm 1918, nhà văn Lỗ Tấn đầy ảnh hưởng của văn học Trung Hoa đã có một lời phán đoán lạnh mình: "tình trạng ngoại thuộc khiến người Trung Hoa mất lương thiện và lương tri".

Chẳng những vậy, cũng trong truyện ngắn "Cuồng nhân Nhật ký" (Nhật Ký Người Điên) ông còn dùng ẩn dụ "người ăn thịt người" để nói về nền văn minh Trung Hoa. Cỗ bàn cho những kẻ giàu có và quyền thế. Theo Lỗ Tấn, Trung Quốc là nhà bếp của những bữa ăn ghê tởm này.

Chúng ta khó nói Lỗ Tấn có chủ trương kỳ thị Hán tộc dù rằng ông được du học bên Nhật và mở tầm nhìn ra các nước tiên tiến Tây phương. Chính là vì hiểu thấu thế giới văn minh mà ông muốn cảnh tỉnh đồng bào bằng lối viết châm biếm và sắc bén của một văn hào.

Có lẽ Lỗ Tấn phát giác bệnh "tâm thần phân liệt", schizophrenia, của Hán tộc, khi họ sống với hai nhận thức và trạng thái tâm lý trái ngược. Những gì đang xảy ra tại Trung Quốc còn cho thấy họ mắc bệnh "tự bế" hay "tự kỷ", autism, tự thu vào chính mình mà khỏi cần biết về sự thật khách quan ở bên ngoài....

Sau bài "Trung Quốc Ngàn Năm - Những nhập nhằng của Bắc Kinh và hiểu lầm của thế giới về Trung Quốc" đăng kỳ trước về ngàn năm đã qua của Trung Quốc, kỳ này chúng ta sẽ tìm hiểu tâm lý phức tạp của Hán tộc từ đó nhìn ra những động thái hiện đại của lãnh đạo Bắc Kinh.

Trải qua ngàn năm cận đại của Trung Quốc, nếu tính từ năm 960 khi nhà Đại Tống xuất hiện đến năm 1911 là khi là Đại Thanh sụp đổ trong cuộc "Cách mạng Tân Hợi", Trung Quốc nằm dưới sự thống trị của các dị tộc phi-Hán, không phải người Hán, trong hơn 600 năm. Những sắc dân mà Hán tộc cho là thấp kém man rợ, như Nữ Chân, Khất Đan, Kim, Liêu, Tây Hạ, Mông Cổ, Mãn Thanh, v.v... đã khuất phục và cai trị Trung Quốc trong một thời gian dài hơn hai phần ba.

Một độc giả Phong Vân có thêm lời bình về bài này, người viết xin chia sẻ nguyên văn:

"Bác Nghĩa chỉ tính từ thời nhà Tống là còn nhẹ tay với Hán tộc đó. Thực chất khi nhà Tấn phải thiên đô về Giang Tả vì Ngũ Hồ loạn hoa thì phía Bắc Trường Giang đã là thiên hạ của người Hồ. Đê Tần của Phù Kiên, Tiền Yên & Hậu Yên họ Mộ Dung Tiên Ti, Bắc Ngụy của Thác Bạt Tiên Ti. Hán tộc chỉ có được phong quang nhờ vào chiến thắng Phì Thủy của Tạ An, Tạ Huyền; thêm vào Lưu Dụ lập nên nhà Lưu Tống Bắc phạt; cùng với Dương Kiên lập nên nhà Tùy. Nhưng cũng chỉ truyền được 2 đời lại để Lý Đường vốn là gốc người Đột Quyết thống nhất Hoa Hạ. Rồi về sau Hậu Tấn Thạch Kính Đường người Sa Đà nhờ quân Khiết Đan vào lật đổ Hậu Đường dâng lên Yên Vân thập lục châu trở thành cục gân gà khó nuốt cho Hán tộc từ Đại Tống trở đi."

Ngày nay, lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh hiển nhiên là không quên điều ấy và cũng biết rằng trong tiềm thức của thần dân là một chuỗi ẩn ức.

Nói về Bắc Kinh, thành phố này chỉ thật sự là kinh đô Trung Quốc từ những thời ngoại thuộc.

Từ Tần Thủy Hoàng Đế (năm -221) đến khi Phổ Nghi nhà Mãn Thanh bị truất năm 1911, trải qua 2132 năm, Bắc Kinh không là kinh đô Trung Quốc trong khoảng 15 thế kỷ. Các triều Hán tộc thời xưa đã chọn Trường An (Tây An ngày nay), Lạc Dương, Khai Phong, hay Nam Kinh, thậm chí Trùng Khánh làm thủ đô. Bắc Kinh chỉ là nơi mà họ lên triều cống các dị tộc man rợ ở mạn Bắc, rồi thành kinh sư của nhà Liêu thuộc tộc Khất Đan (dưới tên Nam Kinh), nhà Kim thuộc tộc Nữ Chân (dưới tên Trung Đô), và nhà Nguyên của dân Mông Cổ (dưới tên Đại Đô).

Vào thời Minh, năm 1402, Yên vương Chu Lệ từ đất phân phong của mình ở đấy đưa quân về Nam Kinh cướp ngôi của cháu lên làm Hoàng đế. Vĩnh Lạc đế mở rộng Bắc Kinh thành kinh đô vào năm 1403. Mà bốn phương không phẳng lặng, hai kinh chẳng vững vàng như văn chương viết lại: trong 276 năm của nhà Minh, từ 1368 đến 1644, Trung Quốc có chừng 300 cuộc chiến! Khi nhà Mãn Thanh từ phương Bắc xuống cai trị toàn cõi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trở thành kinh đô của dị tộc, cho đến ngày nay....

Từ vị trí và vai trò của Bắc Kinh, chúng ta khám phá ra một quy luật, như một nghịch lý: Trong ngàn năm, lãnh thổ Trung Quốc mở rộng dưới thời cai trị của bốn dị tộc Liêu Kim Mông Mãn và co cụm dưới hai thời Tống Minh của Hán tộc!

Dù bị khinh thường, mà bất chấp, các dị tộc đem lại sự huy hoàng và cả tính chất "đa nguyên" cho Trung Quốc với sự đóng góp của nhiều phần tử ưu tú phi-Hán xuất phát từ Tây Á, Trung Á, Âu Châu. Khi Hán tộc lên cầm quyền thì tinh thần duy chủng, chủ nghĩa "Đại Hán là nhất", lại được khôi phục.

Lãnh đạo Bắc Kinh ngày nay vơ lấy cả hai, hiện tượng tâm thần phân liệt: 1) về địa dư chính trị thì những gì các dị tộc chinh phục được, như Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương hay Tây Tạng, đều thuộc về Trung Quốc; 2) về chủng tộc thì Trung Quốc đó là do Hán tộc làm chủ, các sắc tộc khác đều là phó thường dân, được mặc áo đẹp đi vào Đại hội để chụp ảnh tuyên truyền.


Đấy cũng là lúc chúng ta phát giác ra sự dối trá của ngôn ngữ. Quốc hiệu Trung Quốc - quốc gia trung tâm – là sự nhập nhằng tiện lợi. Và "thiên hạ" là khái niệm tuyệt vời, dưới vòm trời này, cái gì cũng thuộc về Thiên triều của Hán tộc! Sự thật thì trong hai phần ba thời gian ngàn năm, Hán tộc mới là sắc tộc bị trị.

Khoảng thời gian đằng đẵng ấy khiến họ phát triển ra khả năng phân thân, ăn nói nước đôi.

Họ lập hội kín, nói một đàng làm một nẻo vì có chính nghĩa sáng ngời là chủ nghĩa dân tộc dưới ách ngoại bang. Gian với địch nghĩa là trung với ta. Riết rồi gian trung khó định, chính tà bất phân. Lỗ Tấn nói không sai! Sau đó, từ năm 1911 trở về sau, mới là chủ nghĩa bài ngoại, một biểu hiện khác của tinh thần duy chủng, được các chế độ cận đại triệt để khai thác.

Hán tộc còn phát huy một huyền thoại khác, là các dị tộc đều được Hán hóa. Chứng cớ là Liêu Kim Mông Mãn đều lại dùng tiếng Hán và áp dụng chế độ cai trị Khổng nho của người Hán.

Thực tế lại không hẳn như vậy. Chế độ cai trị xuất phát từ tư tưởng Khổng nho và cả Hán ngữ được sử dụng như phương tiện củng cố quyền lực trung ương. Các đế chế của dị tộc thiểu số đều dùng phép "trong bá ngoài vương" để cai trị Hán tộc. Bên trong là kỹ thuật chặt chẽ của pháp gia, bên ngoài được tráng men vương đạo của nho gia để bảo vệ triều đình. Ông thầy Khổng tử bị hàm oan khi còn sống. Sau đó, được đề cao hay giáng cấp hoặc đả phá vì những lý do nằm ngoài lý luận nhân trị, vì thuộc về tính toán pháp trị của các đời sau.

Vì thế, cống hiến của Hán tộc không chỉ có chủ nghĩa duy chủng ethnocentrism mà còn có nghệ thuật cai trị độc tôn, được các dị tộc triệt để khai thác - trên đầu Hán tộc.

Và về văn hóa thì quả rằng cuốn Tự Điển thời Khang Hy hay bộ Tứ Khố Toàn Thư vĩ đại thời Càn Long là những đỉnh cao chói lọi cho hậu thế. Nhưng là thành tựu của triều Mãn Thanh làm rạng danh Hán tộc. Cái danh hão....

Chúng ta trở lại chuyện ngày nay và cái bệnh "tự bế" autism của thiên triều Hán tộc tại Bắc Kinh.

Nhìn ra ngoài thì năm 1919, Đế quốc Ottoman sụp đổ trên một dải đất bát ngát vắt qua ba lục địa Âu-Á-Phi sau khi sắc dân Thổ (Turkish) khởi nghiệp từ năm 1299. Khi ấy, dân Thổ có sự chọn lựa. Hoặc là ôm rơm nặng bụng để giữ lại lãnh thổ cũ của Đế chế suy tàn, bên trong có quá nhiều sắc dân, nào Nam Âu, Phi Châu, nào Ba Tư, Á Rập, Ai Cập, v.v.... Hai là gom lại vùng đất truyền thống, nơi tập trung dân số đông nhất.

Họ chọn giải pháp thứ nhì để lập ra Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ và hạ phóng các vùng khác. Năm 1928, họ cũng đưa mẫu tự La tinh vào hệ thống quốc ngữ và giữ lại tiếng Thổ được cách tân, nhưng gạt bỏ ảnh hưởng của ngôn ngữ Ba Tư và Á Rập. Đấy là một cuộc cách mạng mấy trăm năm mới thấy một lần. Trung Quốc thời Mao lại không có tinh thần cách mạng như vậy!

Mao Trạch Đông không làm cách mạng về văn hóa và ngôn ngữ mà chỉ cải cách theo kiểu chắp vá. Và về chuyện lãnh thổ lại có những chọn lựa nửa vời, hậu quả của bệnh tâm thần phân liệt.

Thay vì giải phóng hoặc buông bỏ những khu vực của dị tộc để tập trung xây dựng quốc gia trong vùng đất truyền thống của Hán tộc, Mao đòi giữ hết và nhận hết như lãnh thổ của Hán tộc và thi hành chính sách di dân, dời dân, trong nội địa để bảo đảm cái thế thống trị của Hán tộc.

Ngoại lệ và sự nửa vời là dù Mao đòi lại những phần đất bị liệt cường sâu xé vào đời Thanh sau Hiệp ước Bắc Kinh năm 1860 thì vẫn nhường lại cho Liên Xô, hậu duệ của Đế quốc Nga, một dải đất bát ngát tại khu vực Mãn Châu, đất cũ của các tộc Nữ Chân, Khất Đan, Cao Ly, v.v.... Đó là miền Đông Tartary, kéo dài từ hợp lưu của sông Hắc Long giang (sông Amur) với Ô Tô Lý sông Ussuri) tới đảo Sakhalin và bao trùm lên hai thành phố lớn là Khabarovsh và Vladivostok. Ngoài ra, nhiều dải đất khác cũng bất ngờ được thả nổi, như Ngoại Mông nay là Cộng hòa Mông Cổ, hay Cộng hòa Tyva ở miền Nam Tây Bá Lợi Á.

Cho nên ranh giới của Trung Quốc hiện đại là kết quả của nhiều chọn lựa chập chờn phi lý thời "cách mạng". Những chọn lựa này và chánh sách cải tạo và di dân sau đó mới gây vấn đề nan giải cho một xứ có địa dư đa nguyên mà chính trị độc tôn của một sắc tộc.

Khi nhìn thấy lãnh đạo Bắc Kinh còn xây dựng các khu vực chiếm đóng của dị tộc làm vùng trái độn quân sự, nay lại đòi nhoài mình ra Đông hải của xứ khác, ta hiểu ra tâm lý tự bế hay tự kỷ. Họ bất chấp sự thật khách quan ở bên ngoài mà chỉ nhìn thấy những ham muốn ở bên trong.

Họ ôm rơm nặng bụng và có ngày bị báng khi hết đà tăng trưởng. Là chuyện của 10 năm tới....

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.