TỈNH LẠNG SƠN
Tỉnh Lạng Sơn diện tích 8305 km vuoâng.
Dân số năm 2011 là 831.800 người, mật độ 90 người/km vuoâng. Sắc dân: Kinh, Tày, Nùng, Dao... Gồm có: Thành phố Lạng Sơn và 10 huyện: Tràng Định, Văn Lãng, Văn Quang, Bình Gia, Bắc Sơn, Hữu Lũng, Chi Lăng, Cao Lộc, Mộc Bình, Đình Lập. Tỉnh lỵ ở TP Lạng Sơn. Tỉnh Lạng Sơn đông bắc giáp tỉnh Quảng Tây của Tàu (253 km), bắc giáp tỉnh Cao Bằng, tây giáp Bắc Kạn và Thái Nguyên, nam giáp Bắc Giang, đông giáp Quảng Ninh. Nhiệt độ trung bình 220C. Lạng Sơn có nhiều rừng núi, cây gỗ dồi dào. Các thung lũng, là nơi trồng hoa màu tươi tốt. Có đồng cỏ rộng rãi, nên trâu bò mập mạp. Ở Lạng Sơn đã phát hiện ra các di chỉ của người Việt thời văn minh cổ đại. Dân tộc Tày có nhiều tục ngữ ca dao phong phú. Dân tộc Nùng có làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc.
Lịch sử tỉnh Lạng Sơn: Thời vua Hùng, vùng đất Lạng Sơn thuộc bộ Lục Hải, vào thời nhà Trần gọi là lộ Lạng Giang. Thời vua Lê Thánh Tông gọi là thừa tuyên Lạng Giang (1466), rồi xứ Lạng Sơn (1490). Năm 1831, thời Minh Mạng đổi thành tỉnh Lạng Sơn. Tháng 12-1975, Lạng Sơn và Cao Bằng gộp lại thành tỉnh Cao Lạng; đến tháng 12-1978, lại tách ra làm hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng trở lại.
Chùa Tam Thanh: Chùa ở trong động Tam Thanh, thuộc TP. Lạng Sơn, Động Tam Thanh sâu khoảng 50m, trong động có Hồ Cảnh (Hồ Âm Ty) nước không bao giờ cạn, cuối động có lối thông thiên. Trong động có nhiều hình tượng ly kỳ như tượng Phật, chạm trổ tinh vi từ TK 16-17. Nên chùa Tam Thanh là “Trấn danh bát cảnh” cuả xứ Lạng. Gần động Tam Thanh có thành cổ nhà Mạc.
Di tích ở huyện Bắc Sơn, đã phát hiện ra nhiều tư liệu khảo cổ, được xác định nền văn hóa Bắc Sơn thuộc thời kỳ đồ đá sơ khai, nơi đây còn tìm được nhiều công cụ đồ đá và di chỉ về sự cư trú của người Việt cổ, đã sinh sống chốn này.
Gần TP Lạng Sơn có hòn Vọng Phu, theo truyền thuyết nàng Tô Thị, bồng con lên núi cao, dõi mắt chờ chồng chinh chiến phương Bắc mà hoá đá. Nên Lạng Sơn từ xưa đã truyền tụng:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa.
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh."
Ải Chi Lăng ở Lạng Sơn là vị trí hiểm yếu về quân sự. Núi đá vôi ở phía tây, núi Thái Hòa và Bảo Đài ở phía đông, chỗ rộng nhất 1 km. Nơi đây đã biết bao lần là nơi làm mồ chôn giặc Bắc xâm lược. Quân Tống bị đánh đuổi tan tành vào thời nhà Lý, quân Nguyên bị đánh dồn dập dưới đời nhà Trần. Đại viện binh của Liễu Thăng bị Nghĩa quân Lam Sơn bao vây tiêu diệt trọn vào ngày 10-10-1427, nên ải Chi Lăng là nơi ấn tích lẫy lừng của nước Việt.
Chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn, buôn bán nhộn nhịp, cách TP. Lạng Sơn về phía bắc 17 km, là thị trấn Đồng Đăng, từ đây có thể nhìn thấy ải Nam Quan. Nhưng ải Nam Quan hôm nay (30-4-2008) đã bị cắt nhượng cho Tàu cộng, tuy nhiên người viết vẫn tìm tòi, trình bày về di tích lịch sử này; vì ải Nam Quan là di tích của Lịch sử. Quyển “Phương đình dư Địa chí” của Nguyễn Văn Siêu (Ngô Mạnh Nghinh dịch, Tự Do xuất bản, Sài Gòn, 1960): “Cửa hay ải Nam Quan, đời Hậu Lê trở về trước gọi là cửa Pha Lũy (Pha Dữ) ở về phía bắc châu Văn Yên. Muốn vào An Nam phải qua ải này.”
Năm 1774, Đốc trấn Nguyễn Trọng Đang, tu sửa Ngưỡng Đức Đài của ta ở Nam Quan, ghi như sau: “Ngưỡng Đức Đài không biết dựng từ đời nào, hình như có từ niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh, ngang với đời vua Lê Trang Tông nước ta. Đài không có quán xá, hai bên tả hữu, lợp bằng cỏ, từ trước, sửa chữa qua loa, nên vẫn như cũ. Vào năm Canh tý, nhà Lê Trung hưng của ta đời thứ 14, ngang với năm 44 đời vua Càn Long nhà Thanh. Đang tôi làm chức Đốc trấn (Lạng Sơn). Năm năm sau, Đang tôi sửa chữa xây dựng lại bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng”.
Trong cuốn “Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ” của Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư và Đỗ Đình Nghiêm (Nhà in Lê Văn Tâm, Hà Nội, 1926): “Cửa Nam Quan ở ngay biên giới Việt-Tàu. Từ Hà Nội đến Lạng Sơn 150 km, đến cây số 152 là chợ Kỳ Lừa, đến cây số 158 là Tam Lung, đến cây số 162 là Đồng Đăng, đến cây số 167 là cửa Nam Quan, có núi Vọng Phu hay nàng Tô Thị là những danh thắng của Lạng Sơn, và từ tỉnh lỵ Lạng Sơn lên Nam Quan là 17 km”. Non nước Việt, Tiền Nhân đã tô điểm bằng xương máu. Chúng Ta phải làm gì?!!!
Lạng Sơn xinh xắn núi đồi
Nam Quan di tích, nhớ hoài khó quên
Cảm tác: Non nước Lạng Sơn
Lạng Sơn, bắc giáp tỉnh Cao Bằng
Liền lặn phía nam, giáp Bắc Giang
San sát Trung hoa, dài tít tắp
Trùng trùng rừng núi rộng thênh thang
Lạng Sơn, lắm suối, lại nhiều sông
Thung lũng bao la, ấy cánh đồng
Gia súc, cỏ tươi, quanh quẩn gặm
Nghề nông, đất tốt, mải mê trồng
Lạng Sơn, rừng rú rộng thênh thang
Nơi chợ Kỳ Lừa, hàng ngổn ngang
Nghi ngại Đồng Đăng, bờ giới tuyến
Giữ gìn tổ quốc, ải Nam Quan?!
Ải Chi Lăng, ấn tích sinh tồn
Đả viện, quân Minh hết đất chôn
Dồn dập đuổi Nguyên, Nguyên khiếp vía
Lẹ làng phạt Tống, Tống kinh hồn
Vọng phu Tô Thị, đứng chờ chồng
Hoá đá, bồng con, âu hoá công!
Thiếp ở lẻ loi, thao thức đợi
Chàng đi biền biệt, nhớ nhung trông
Chùa Tam Thanh, thạch nhũ lung linh
Tượng Phật, hoa đăng, thanh thoát hình
Di tích Bắc Sơn vang vọng tiếng
Lạng Sơn non nước vấn vương tình
Nguyễn Lộc Yên
Tỉnh Lạng Sơn diện tích 8305 km vuoâng.
Dân số năm 2011 là 831.800 người, mật độ 90 người/km vuoâng. Sắc dân: Kinh, Tày, Nùng, Dao... Gồm có: Thành phố Lạng Sơn và 10 huyện: Tràng Định, Văn Lãng, Văn Quang, Bình Gia, Bắc Sơn, Hữu Lũng, Chi Lăng, Cao Lộc, Mộc Bình, Đình Lập. Tỉnh lỵ ở TP Lạng Sơn. Tỉnh Lạng Sơn đông bắc giáp tỉnh Quảng Tây của Tàu (253 km), bắc giáp tỉnh Cao Bằng, tây giáp Bắc Kạn và Thái Nguyên, nam giáp Bắc Giang, đông giáp Quảng Ninh. Nhiệt độ trung bình 220C. Lạng Sơn có nhiều rừng núi, cây gỗ dồi dào. Các thung lũng, là nơi trồng hoa màu tươi tốt. Có đồng cỏ rộng rãi, nên trâu bò mập mạp. Ở Lạng Sơn đã phát hiện ra các di chỉ của người Việt thời văn minh cổ đại. Dân tộc Tày có nhiều tục ngữ ca dao phong phú. Dân tộc Nùng có làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc.
Lịch sử tỉnh Lạng Sơn: Thời vua Hùng, vùng đất Lạng Sơn thuộc bộ Lục Hải, vào thời nhà Trần gọi là lộ Lạng Giang. Thời vua Lê Thánh Tông gọi là thừa tuyên Lạng Giang (1466), rồi xứ Lạng Sơn (1490). Năm 1831, thời Minh Mạng đổi thành tỉnh Lạng Sơn. Tháng 12-1975, Lạng Sơn và Cao Bằng gộp lại thành tỉnh Cao Lạng; đến tháng 12-1978, lại tách ra làm hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng trở lại.
Chùa Tam Thanh: Chùa ở trong động Tam Thanh, thuộc TP. Lạng Sơn, Động Tam Thanh sâu khoảng 50m, trong động có Hồ Cảnh (Hồ Âm Ty) nước không bao giờ cạn, cuối động có lối thông thiên. Trong động có nhiều hình tượng ly kỳ như tượng Phật, chạm trổ tinh vi từ TK 16-17. Nên chùa Tam Thanh là “Trấn danh bát cảnh” cuả xứ Lạng. Gần động Tam Thanh có thành cổ nhà Mạc.
Di tích ở huyện Bắc Sơn, đã phát hiện ra nhiều tư liệu khảo cổ, được xác định nền văn hóa Bắc Sơn thuộc thời kỳ đồ đá sơ khai, nơi đây còn tìm được nhiều công cụ đồ đá và di chỉ về sự cư trú của người Việt cổ, đã sinh sống chốn này.
Gần TP Lạng Sơn có hòn Vọng Phu, theo truyền thuyết nàng Tô Thị, bồng con lên núi cao, dõi mắt chờ chồng chinh chiến phương Bắc mà hoá đá. Nên Lạng Sơn từ xưa đã truyền tụng:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa.
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh."
Ải Chi Lăng ở Lạng Sơn là vị trí hiểm yếu về quân sự. Núi đá vôi ở phía tây, núi Thái Hòa và Bảo Đài ở phía đông, chỗ rộng nhất 1 km. Nơi đây đã biết bao lần là nơi làm mồ chôn giặc Bắc xâm lược. Quân Tống bị đánh đuổi tan tành vào thời nhà Lý, quân Nguyên bị đánh dồn dập dưới đời nhà Trần. Đại viện binh của Liễu Thăng bị Nghĩa quân Lam Sơn bao vây tiêu diệt trọn vào ngày 10-10-1427, nên ải Chi Lăng là nơi ấn tích lẫy lừng của nước Việt.
Chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn, buôn bán nhộn nhịp, cách TP. Lạng Sơn về phía bắc 17 km, là thị trấn Đồng Đăng, từ đây có thể nhìn thấy ải Nam Quan. Nhưng ải Nam Quan hôm nay (30-4-2008) đã bị cắt nhượng cho Tàu cộng, tuy nhiên người viết vẫn tìm tòi, trình bày về di tích lịch sử này; vì ải Nam Quan là di tích của Lịch sử. Quyển “Phương đình dư Địa chí” của Nguyễn Văn Siêu (Ngô Mạnh Nghinh dịch, Tự Do xuất bản, Sài Gòn, 1960): “Cửa hay ải Nam Quan, đời Hậu Lê trở về trước gọi là cửa Pha Lũy (Pha Dữ) ở về phía bắc châu Văn Yên. Muốn vào An Nam phải qua ải này.”
Năm 1774, Đốc trấn Nguyễn Trọng Đang, tu sửa Ngưỡng Đức Đài của ta ở Nam Quan, ghi như sau: “Ngưỡng Đức Đài không biết dựng từ đời nào, hình như có từ niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh, ngang với đời vua Lê Trang Tông nước ta. Đài không có quán xá, hai bên tả hữu, lợp bằng cỏ, từ trước, sửa chữa qua loa, nên vẫn như cũ. Vào năm Canh tý, nhà Lê Trung hưng của ta đời thứ 14, ngang với năm 44 đời vua Càn Long nhà Thanh. Đang tôi làm chức Đốc trấn (Lạng Sơn). Năm năm sau, Đang tôi sửa chữa xây dựng lại bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng”.
Trong cuốn “Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ” của Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư và Đỗ Đình Nghiêm (Nhà in Lê Văn Tâm, Hà Nội, 1926): “Cửa Nam Quan ở ngay biên giới Việt-Tàu. Từ Hà Nội đến Lạng Sơn 150 km, đến cây số 152 là chợ Kỳ Lừa, đến cây số 158 là Tam Lung, đến cây số 162 là Đồng Đăng, đến cây số 167 là cửa Nam Quan, có núi Vọng Phu hay nàng Tô Thị là những danh thắng của Lạng Sơn, và từ tỉnh lỵ Lạng Sơn lên Nam Quan là 17 km”. Non nước Việt, Tiền Nhân đã tô điểm bằng xương máu. Chúng Ta phải làm gì?!!!
Lạng Sơn xinh xắn núi đồi
Nam Quan di tích, nhớ hoài khó quên
Cảm tác: Non nước Lạng Sơn
Lạng Sơn, bắc giáp tỉnh Cao Bằng
Liền lặn phía nam, giáp Bắc Giang
San sát Trung hoa, dài tít tắp
Trùng trùng rừng núi rộng thênh thang
Lạng Sơn, lắm suối, lại nhiều sông
Thung lũng bao la, ấy cánh đồng
Gia súc, cỏ tươi, quanh quẩn gặm
Nghề nông, đất tốt, mải mê trồng
Lạng Sơn, rừng rú rộng thênh thang
Nơi chợ Kỳ Lừa, hàng ngổn ngang
Nghi ngại Đồng Đăng, bờ giới tuyến
Giữ gìn tổ quốc, ải Nam Quan?!
Ải Chi Lăng, ấn tích sinh tồn
Đả viện, quân Minh hết đất chôn
Dồn dập đuổi Nguyên, Nguyên khiếp vía
Lẹ làng phạt Tống, Tống kinh hồn
Vọng phu Tô Thị, đứng chờ chồng
Hoá đá, bồng con, âu hoá công!
Thiếp ở lẻ loi, thao thức đợi
Chàng đi biền biệt, nhớ nhung trông
Chùa Tam Thanh, thạch nhũ lung linh
Tượng Phật, hoa đăng, thanh thoát hình
Di tích Bắc Sơn vang vọng tiếng
Lạng Sơn non nước vấn vương tình
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn