(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. Xin độc giả đừng xem đấy là chính sử, vì “Thiết nghĩ” chỉ là ý kiến riêng rẽ của tác giả. “Khái quát Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba (Tuesday) mỗi tuần - NLY).
THI SÁCH
(? - 39 SCN)
Ông Đặng Thi Sách, quê huyện Chu Diên, thuộc quận Giao Chỉ. Ông là phu quân của bà Trưng Trắc. Năm 34 (SCN), Tô Định được vua Hán cử qua quận Giao Chỉ, thay Thái thú Tích Duyên. Thi Sách là con Lạc tướng ở huyện Chu Diên (nay thuộc đất của huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc), ông có những người tâm phúc tài ba như: Lê Đình Lượng, Phùng Thị Chính... Thi Sách nhìn thấy nhân dân bị cơ cực bởi sự cai trị ác độc của Tô Định, ông viết thư cảnh cáo Tô Định: “Mảnh đất phương Nam hàng vạn bá tánh, dưới sự cai trị của triều đình, nhà ngươi đi tuyên hóa phải lấy dân làm trọng. Chính sách của ngươi hành tội kẻ có ý tốt vì nói thẳng, nghe theo ý kiến kẻ luồn cúi, để bọn tì thiếp ngang ngược, bọn nịnh nọt lộng quyền. Ngươi nói thương dân luôn miệng, nhưng đày đọa dân cơ cực, rỉa rói của dân làm giàu, bòn rút sức dân làm thích. Cậy mình mạnh như gươm Thái a sắc bén, không nghĩ đến lúc nguy ngập như sương mai sẽ tan khi có nắng. Nếu không biết dung khoan, hung hiểm sẽ đến” (Nguyên văn: Lóa nhĩ Nam phương ức vạn sinh linh diệt giai triều đình xích tử, thừa lưu tuyên hóa, tất dĩ ái dân vi tiên. Tứ kim vi chính, trung ngôn giả, Mưu giả kiến tội, bôn tẩu thừa thuận giả kiến thưởng, cơ thiếp đắc dĩ lộng quyền, biến bế đắc dĩ thiện quyền. Tuy ái dân chi thuyết vô thời vô chi, nhi tổn hại chi tâm dũ nhật dũ liệt tuấn dân cao dĩ phong kỳ tài, kiệt dân lực dĩ cung kỳ dục. Tự thị phú cường lẫm hữu Thái a chi thế, bất tri khuynh bại thí như triều lộ chi nguy. Như bất tế chi dĩ khoan, tắc nguy vong lập chí hỷ.
Tô Định không nghe lời nói thẳng ấy, lại sai người bất ngờ bắt Thi Sách giết vào năm 39 (SCN).
Cảm mộ: Thi Sách
Thẳng thắn ngăn ngừa kẻ lộng quyền
Quỷ thần giận dữ cảnh truân chuyên
Thương dân khẳng khái, lo lường bảo
Những kẻ tham lam, há dễ khuyên?!
MAN THIỆN
(? - 43)
Bà là dòng dõi của vua Hùng vương, và là thân mẫu của Trưng Vương, có sách ghi tên của bà là Trần Thị Đoan. Bà thông thạo cả văn lẫn võ, chồng mất sớm, Bà tận tuỵ nuôi nấng và truyền thụ văn võ và binh pháp, cho hai người con gái là Trưng Trắc và Trưng Nhị.
Năm 39 (SCN), Bà cùng 2 người con gái, chiêu mộ Nghĩa quân, đánh đuổi quân Hán đang tàn bạo và bóc lột nhân dân ta. Chính Bà cũng đã xông xáo nơi trận mạc, cho đến khi quét sạch quân thù ra khỏi đất nước. Năm Quý Mão (43, SCN), Mã Viện đem quân ào ạt xâm lược nước ta. Thế giặc rất cường bạo, con của Bà là Trưng Nữ Vương, dù chống trả quyết liệt, nhưng khó chận đứng sự tấn công hung hãn của quân Hán.
Mặc dù tuổi đã già, một lần nữa, Bà đem quân xung trận, chống với quân cướp nước rất dũng mãnh và kiên cường. Cánh quân của Bà đã tiêu diệt nhiều tên giặc xâm lược, cho đến khi sức cùng lực kiệt, Bà cùng Nghĩa quân lẫm liệt hy sinh tại chiến trường. Nhân dân nơi đây ngưỡng mộ uy đức của Bà, nên chôn cất Bà rất trang trọng, ngôi mộ của Bà gọi là “Mả Dạ”
và nhân dân lập miếu thờ Bà, miếu ấy gọi là “Miếu Mèn”. Vào thời xưa, gọi “Dạ” là tiếng tôn xưng bà già anh hùng; còn gọi “Mèn” là tiếng tôn kính vị nữ anh hùng ấy như bà mẹ chung của dân tộc. “Miếu Mèn” và “Mả Dạ” ở vùng đồi cây giữa sông Đáy với núi Ba Vì ngày nay.
*- Thiết nghĩ: Việt Nam có câu: “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”, nghĩa cử ấy thật sắt son. Nhưng ở đây, là một bà cụ thấy giặc xâm lăng, lại xông pha chống giặc, nghĩa cử vô cùng kính nể này, chỉ có cụ bà Man Thiện ở Việt Nam mới có.
Cảm niệm: Bà Man Thiện
Nuôi nấng con thơ, dạy võ công
Khuyên lơn con gái cứu non sông
Giúp con đánh đuổi quân xâm lược
Bà lão diệt thù, ngưỡng mộ trông!
Nguyễn Lộc Yên
THI SÁCH
(? - 39 SCN)
Ông Đặng Thi Sách, quê huyện Chu Diên, thuộc quận Giao Chỉ. Ông là phu quân của bà Trưng Trắc. Năm 34 (SCN), Tô Định được vua Hán cử qua quận Giao Chỉ, thay Thái thú Tích Duyên. Thi Sách là con Lạc tướng ở huyện Chu Diên (nay thuộc đất của huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc), ông có những người tâm phúc tài ba như: Lê Đình Lượng, Phùng Thị Chính... Thi Sách nhìn thấy nhân dân bị cơ cực bởi sự cai trị ác độc của Tô Định, ông viết thư cảnh cáo Tô Định: “Mảnh đất phương Nam hàng vạn bá tánh, dưới sự cai trị của triều đình, nhà ngươi đi tuyên hóa phải lấy dân làm trọng. Chính sách của ngươi hành tội kẻ có ý tốt vì nói thẳng, nghe theo ý kiến kẻ luồn cúi, để bọn tì thiếp ngang ngược, bọn nịnh nọt lộng quyền. Ngươi nói thương dân luôn miệng, nhưng đày đọa dân cơ cực, rỉa rói của dân làm giàu, bòn rút sức dân làm thích. Cậy mình mạnh như gươm Thái a sắc bén, không nghĩ đến lúc nguy ngập như sương mai sẽ tan khi có nắng. Nếu không biết dung khoan, hung hiểm sẽ đến” (Nguyên văn: Lóa nhĩ Nam phương ức vạn sinh linh diệt giai triều đình xích tử, thừa lưu tuyên hóa, tất dĩ ái dân vi tiên. Tứ kim vi chính, trung ngôn giả, Mưu giả kiến tội, bôn tẩu thừa thuận giả kiến thưởng, cơ thiếp đắc dĩ lộng quyền, biến bế đắc dĩ thiện quyền. Tuy ái dân chi thuyết vô thời vô chi, nhi tổn hại chi tâm dũ nhật dũ liệt tuấn dân cao dĩ phong kỳ tài, kiệt dân lực dĩ cung kỳ dục. Tự thị phú cường lẫm hữu Thái a chi thế, bất tri khuynh bại thí như triều lộ chi nguy. Như bất tế chi dĩ khoan, tắc nguy vong lập chí hỷ.
Tô Định không nghe lời nói thẳng ấy, lại sai người bất ngờ bắt Thi Sách giết vào năm 39 (SCN).
Cảm mộ: Thi Sách
Thẳng thắn ngăn ngừa kẻ lộng quyền
Quỷ thần giận dữ cảnh truân chuyên
Thương dân khẳng khái, lo lường bảo
Những kẻ tham lam, há dễ khuyên?!
MAN THIỆN
(? - 43)
Bà là dòng dõi của vua Hùng vương, và là thân mẫu của Trưng Vương, có sách ghi tên của bà là Trần Thị Đoan. Bà thông thạo cả văn lẫn võ, chồng mất sớm, Bà tận tuỵ nuôi nấng và truyền thụ văn võ và binh pháp, cho hai người con gái là Trưng Trắc và Trưng Nhị.
Năm 39 (SCN), Bà cùng 2 người con gái, chiêu mộ Nghĩa quân, đánh đuổi quân Hán đang tàn bạo và bóc lột nhân dân ta. Chính Bà cũng đã xông xáo nơi trận mạc, cho đến khi quét sạch quân thù ra khỏi đất nước. Năm Quý Mão (43, SCN), Mã Viện đem quân ào ạt xâm lược nước ta. Thế giặc rất cường bạo, con của Bà là Trưng Nữ Vương, dù chống trả quyết liệt, nhưng khó chận đứng sự tấn công hung hãn của quân Hán.
Mặc dù tuổi đã già, một lần nữa, Bà đem quân xung trận, chống với quân cướp nước rất dũng mãnh và kiên cường. Cánh quân của Bà đã tiêu diệt nhiều tên giặc xâm lược, cho đến khi sức cùng lực kiệt, Bà cùng Nghĩa quân lẫm liệt hy sinh tại chiến trường. Nhân dân nơi đây ngưỡng mộ uy đức của Bà, nên chôn cất Bà rất trang trọng, ngôi mộ của Bà gọi là “Mả Dạ”
và nhân dân lập miếu thờ Bà, miếu ấy gọi là “Miếu Mèn”. Vào thời xưa, gọi “Dạ” là tiếng tôn xưng bà già anh hùng; còn gọi “Mèn” là tiếng tôn kính vị nữ anh hùng ấy như bà mẹ chung của dân tộc. “Miếu Mèn” và “Mả Dạ” ở vùng đồi cây giữa sông Đáy với núi Ba Vì ngày nay.
*- Thiết nghĩ: Việt Nam có câu: “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”, nghĩa cử ấy thật sắt son. Nhưng ở đây, là một bà cụ thấy giặc xâm lăng, lại xông pha chống giặc, nghĩa cử vô cùng kính nể này, chỉ có cụ bà Man Thiện ở Việt Nam mới có.
Cảm niệm: Bà Man Thiện
Nuôi nấng con thơ, dạy võ công
Khuyên lơn con gái cứu non sông
Giúp con đánh đuổi quân xâm lược
Bà lão diệt thù, ngưỡng mộ trông!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn