Hôm nay,  

Những Điều Tôi Học Được Từ Phạm Tất Hanh

9/16/201200:00:00(View: 10380)
Bạn Hanh thua tôi đến 6-7 tuổi, nghề nghiệp chuyên môn cũng khác với tôi. Nhưng trong suốt hơn 30 năm quen biết gần gũi sát cánh với Hanh, tôi đã có cái duyên may mắn được tiếp nhận từ nơi Hanh rất nhiều điều thật tốt đẹp quý báu. Nay nhân dịp Lễ Giỗ Đầu của Hanh vào cuối năm 2012 này, tôi xin ghi lại một số kỷ niệm tuyệt vời mà tôi có được với người anh em rất mực thân thương yêu quý đó.

I – Sơ lược về mối thân tình của Hanh và tôi.

Trước năm 1975, thì tôi ít có dịp trao đổi gặp gỡ thân tình với Hanh. Nhưng qua việc sinh họat với Phong trào Thanh Lao Công, Hanh cũng đã có lần tới tham gia công tác với anh chị em chúng tôi trong khuôn khổ của Chương trình Phát triển Cộng đồng tại các Quận 6, 7 & 8 Saigon vào thời kỳ những năm 1966-1971. Thành ra Hanh biết nhiều về công chuyện tôi làm trong giai đọan này, trong khi tôi thì lại thường có liên hệ với một số anh chị em khác trong Phong trào Thanh Lao Công mà thôi.

Bắt đầu từ năm 1980 – 81, sau khi Hanh đi tù “cải tạo” về thì sinh sống với gia đình tại khu Dốc Mơ Gia Kiệm, và chúng tôi thường gặp gỡ sát cánh với nhau trong một số sinh họat với các bạn trẻ tại địa phương miệt đồng quê Long Khánh này. Hồi đó, Hanh chuyên dậy môn Anh văn cho các học sinh trong vùng và nhờ sự tận tâm chỉ bảo hướng dẫn cho giới trẻ, nên thầy giáo Hanh được các học sinh và phụ huynh rất quý mến.

Từ năm 1988, tôi thường hướng dẫn đòan bác sĩ, nha sĩ và y tá ở Saigon tình nguyện đi lên khám bệnh phát thuốc cho bà con người dân tộc thiểu số tại khu vực Túc Trưng Định Quán. Trong công tác này, thầy giáo Hanh đã vận động các bạn trẻ ở Gia Kiệm tham gia tiếp sức rất tận tình với phái đòan y tế chúng tôi. Anh cũng vận động với các vị tu sĩ và giáo dân ở địa phương yểm trợ cho đòan bằng cách cho các thành viên chia ra từng nhóm nhỏ 2 – 3 người đến tá túc qua đêm tại một số nhà của bà con. Và còn đãi cho đòan những bữa ăn trước và sau khi thực hiện công tác y tế. Rồi lần nào cũng vậy, bà con lại còn chu đáo tặng cả cho đòan khá nhiều những trái cây, hạt cà phê là thổ sản ở địa phương để làm quà mang về Saigon nữa.

Đến năm 1996, khi gia đình tôi qua định cư tại Mỹ, thì hai chúng tôi lại gặp nhau, anh em thật vui mừng phấn khởi với cuộc trùng phùng hội ngộ này. Và chúng tôi lại cùng nhau tham gia sinh họat vào mỗi sáng Chủ nhật trong Nhóm Gioan Tiền Hô của Phong trào Cursillo tại vùng Orange County. Đặc biệt Hanh lại hợp tác với các bạn trong tạp chí Diễn Đàn Giáo Dân với nhiệm vụ của một người Tổng thư ký tòa sọan.

Sau khi dậy học tại Mỹ một thời gian, Hanh vừa mới về nghỉ hưu, thì khám phá ra mình bị bệnh ung thư. Là người có niềm tin tôn giáo sâu sắc, Hanh tỏ ra rất bình tĩnh trong việc lo chữa bệnh theo chế độ chăm sóc y khoa hiện đại.

Nhưng sau cùng, thì Hanh đã về lại bên quê nhà để cho thân nhân chăm sóc cho đến khi lìa đời ở vào tuổi 70. Cũng như nhiều bà con, bạn hữu và các môn sinh của Hanh, anh chị em chúng tôi ở California tất cả trong Nhóm Diễn Đàn Giáo Dân và Liên Nhóm Gioan Tiền Hô đều thật lòng bùi ngùi thương tiếc người anh em rất mực quý mến trước hung tín này.

II – Những điều tôi học được từ Phạm Tất Hanh.

Quả thật, tôi học được ở Hanh rất nhiều điều thật quý báu, xin được tóm tắt như sau:

1 – Sự khiêm tốn, đơn sơ và đạo hạnh.

Hanh sống khiêm cung ẩn dật và đạo đức như một nhà tu hành. Anh không bao giờ tìm cách phô trương biểu lộ bất cứ sự hiểu biết thông thái gì trước công chúng, mà chỉ chú tâm sát cánh với bao nhiêu bạn hữu khác trong công việc thực hiện những điều có ích lợi thiết thực đối với nhân quần xã hội. Trong nhiều năm tháng sinh họat chung với Hanh, tôi chưa hề bao giờ thấy Hanh có lời lẽ nặng nề hay có cử chỉ khiếm nhã nào đối với bất kỳ một ai cả. Rõ ràng là Hanh luôn áp dụng theo lối xử thế của người xưa, đó là tuy có sự bất đồng giữa anh em bạn bè, nhưng không bao giờ lại vì thế mà đâm ra bất hòa với nhau cả : “Quân tử hòa nhi bất đồng” là như vậy đó.

Thái độ đơn sơ hòa nhã như thế đã làm cho Hanh được nhiều người tin tưởng mến chuộng. Và sự khiêm tốn trì chí nhẫn nại cũng đã giúp Hanh dễ dàng hội nhập vào với tập thể của số đông những anh chị em vốn có cùng một hòai bão và chí hướng cao đẹp như mình.

2 – Sự hy sinh tận tình với sự nghiệp dìu dắt thế hệ trẻ.

Có thể nói suốt cuộc đời họat động hăng say của Hanh là tập trung vào việc đào tạo cho lớp môn sinh trẻ tuổi của mình trở thành những con người công dân gương mẫu, người tín hữu thuần thành. Hanh nêu gương sáng cho các học sinh bằng chính cuộc sống lương hảo và tận tụy của mình – đúng như cha ông ta xưa nay vẫn thường nói là : “Dĩ Thân Nhi Giáo”, tức là đấng bậc làm thầy phải lấy chính bản thân, nhân cách của mình ra để mà khuyên bảo lôi cuốn môn sinh noi theo – hơn là chỉ dùng lời nói suông để kêu gọi học sinh phải làm thế này thế nọ - trong khi chính mình thì lại có những hành vi trái ngược với điều mình chỉ bảo dậy dỗ cho người khác.

Hanh chủ trương mở những lớp dậy nghề kỹ thuật chuyên môn và nhất là vận động các nhà hảo tâm góp phần xây dựng Quỹ Học Bổng Nguyễn Trường Tộ để trợ giúp cho các sinh viên học sinh thuộc gia đình đang gặp khó khăn eo hẹp về mặt kinh tế .

Đông đảo các môn sinh chắc chắn sẽ ghi lại đày đủ chi tiết hơn về những kỷ niệm tốt đẹp với vị thầy đã dày công chăm sóc hướng dẫn cho mình, nên tôi khỏi cần phải trình bày dài dòng hơn nữa trong bài viết này.

3 – Sự gắn bó với truyền thống gia phong gia đạo của mình.

Gia đình cha mẹ của Hanh đều xuất thân từ miền nông thôn trong tỉnh Ninh Bình thuộc vùng châu thổ sông Hồng ở ngòai Bắc và từ nhiều đời các bậc tổ tiên đã theo đạo Công giáo. Ông chú ruột cũng như người em trai của Hanh đều đi tu làm linh mục. Và hai cô em gái của Hanh cũng là nữ tu nữa. Bà con của Hanh phần đông đều định cư ở khu Dốc Mơ – Gia Kiệm là nơi có số đông người di cư Công giáo vào miền Nam từ năm 1954, nên nếp sống của người dân tại đây khá là hiền hòa, ngăn nắp với các nhà thờ, các tu viện được xây dựng san sát gần kề với nhau dọc theo quốc lộ 20 từ Biên Hòa đi Đà lạt, trải dài đến mấy chục cây số suốt từ Ngã Ba Dầu Giây đến tận chân đèo Bảo Lộc (Blao).

Trong nhiều năm sinh sống với gia đình tại khu định cư này, thầy giáo Hanh đã tận tâm hướng dẫn giới học sinh không những về môn Anh văn, mà còn đặc biệt về sinh họat đạo đức tâm linh theo tinh thần cởi mở thông thóang của Công đồng Vatican II kể từ giữa thập niên 1960. Có thể nói thầy giáo Hanh đã truyền lại cho lớp môn sinh cái ngọn lửa nhiệt thành của lòng đạo hạnh sâu sắc được thừa hưởng từ nhiều thế hệ ông bà cha mẹ của mình.

Vào những năm của thập niên 1980, chính tôi đã có nhiều dịp được tham dự những buổi sinh họat của giới trẻ tại đây do bạn Hanh hướng dẫn và tôi thật sự xúc động trước sự phấn khởi nô nức của hàng trăm các em thanh thiếu niên - trong các cuộc gặp gỡ trao đổi thân tình mà rất thắm đượm tinh thần hăng say với lý tưởng nhân bản và nhân ái của người tín đồ Thiên chúa giáo trong khu vực này.

Trên đây là mấy nét phác họa vắn tắt của tôi về những kỷ niệm thật đáng nhớ mà bạn Hanh đã để lại cho cá nhân mình. Tôi tin chắc số đông các bạn hữu của Hanh như bạn học ở Đà Nẵng, bạn cùng dậy học ở Quảng Ngãi, các bạn sĩ quan thuộc Trường Sinh ngữ Quân đội và nhất là các bạn trong Phong trào Thanh Lao Công ở Saigon, Phong trào Cursillo ở California v.v… cũng sẽ ghi lại các chứng từ thật là khả tín về nhân cách trong sáng và tấm lòng đạo hạnh đôn hậu của người bạn thật đáng quý mến này.

Dĩ nhiên là các thân nhân ruột thịt trong gia đình, các tu sĩ và giới chức trong các xứ đạo Công giáo ở Dốc Mơ Gia Kiệm – cũng như đông đảo các môn sinh đã từng được thầy giáo Hanh đào tạo hướng dẫn - thì mỗi người sẽ gợi lại những kỷ niệm tốt đẹp với thầy Hanh trong dịp Lễ Giỗ Đầu vào cuối năm Nhâm Thìn 2012 sắp đến.

Riêng bản thân mình, thì từ ngày có duyên may được gặp gỡ và sát cánh với Hanh trong nhiều năm tháng với công việc xã hội và văn hóa, tôi đã học hỏi được nhiều điều thật tốt đẹp quý báu như đã trình bày trên đây. Qua sự tiếp cận gần gũi với con người đạo hạnh khiêm tốn và hòa nhã này, tôi càng có thêm được sự tin tưởng vững chắc hơn vào đường hướng phục vụ xã hội mà mình cùng với các bạn đã từng theo đuổi từ nhiều năm nay.

Với bản lãnh của những người tín đồ thuần thành đạo hạnh và kiên trì như Antonio Phạm Tất Hanh, tôi vững tin rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam sẽ mãi mãi duy trì được một sức sống thánh thiện, tinh tuyền để có thể vượt qua được mọi thử thách gian lao sóng gió nguy hiểm hiện nay – cũng như cha ông của chúng ta đã từng đứng vững được qua bao nhiêu thời kỳ bách hại đẫm máu thuở xưa vậy./

San Clemente California, Mùa Trung Thu Nhâm Thìn 2012

JB Đoàn Thanh Liêm

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trước những nghi ngại “Hoa Kỳ có còn là đồng minh đáng tin cậy hay không?” thì chúng ta có thể khẳng định rằng Mỹ hay bất kỳ quốc gia nào trong khối tự do đều vẫn là những người bạn đồng hành tốt trong hành trình đi tìm tự do và canh tân đất nước, miễn là chúng ta không quên những bài học đã nêu để phát huy tiềm năng của chính mình, bảo vệ quyền lợi quốc gia, và đạt tới mục tiêu tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc.
Bằng chứng: ”Sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư cùng với các đợt giãn cách liên tiếp khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là các địa phương phía Nam. Theo Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 8/2021 là 85,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Mặc dù rõ ràng là Hoa Kỳ có thể điều hành công việc ra khỏi Afghanistan tốt đẹp hơn, nhưng thảm kịch xảy ra vào tháng này đã kéo dài trong 20 năm. Ngay từ đầu, Mỹ và các đồng minh đã chấp nhận - và không bao giờ xem lại - một chiến lược xây dựng nhà nước từ trên xuống dưới luôn được xem là thất bại như do định mệnh đã an bài. Hoa Kỳ đã xâm chiếm Afghanistan 20 năm trước với hy vọng tái thiết đất nước, nay đã trở thành một tai họa cho thế giới và chính người dân của họ. Trước đợt tăng quân năm 2009, Tướng Stanley McChrystal giải thích, mục tiêu là “chính phủ Afghanistan kiểm soát toàn vẹn lãnh thổ để hỗ trợ ổn định khu vực và ngăn chặn việc sử dụng này cho chủ nghĩa khủng bố quốc tế.“ Hiện nay, với việc thiệt mạng hơn 100.000 và thất thoát khoảng 2 nghìn tỷ đô la, tất cả nước Mỹ phải thể hiện cho nỗ lực của mình là cảnh của một cuộc tranh giành tuyệt vọng để chạy ra khỏi đất nước trong tháng này - một sự sụp đổ nhục nhã gợi nhớ đến sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975. Điều sai lầ
Gặp gỡ và nói chuyện nhiều với những người thông dịch viên Afghanistan, tôi mới hiểu thêm rất nhiều về dân tộc họ và biết rằng chính phủ Afghanistan là một chính phủ tham nhũng lan tràn từ cấp thấp cho đến cấp cao, mức độ nào họ cũng có thể ăn hối lộ được, chỉ có người dân thấp cổ bé miệng là khổ. Người Mỹ biết rất rõ nhưng vẫn không làm gì hết. Bản thân chúng tôi khi ra vào đất nước này, cũng phải đóng cho những nhân viên hải quan đủ thứ tiền, mà phải bằng tiền đô la Mỹ, mệnh giá 100 đồng mới tinh, cũ hoặc dính 1 vết mực, họ không nhận và không chịu ký giấy và đóng mộc. Nói để thấy rằng chúng ta, người Mỹ, hy sinh tiền bạc, xương máu cho họ, thật không đáng chút nào. Rút ra khỏi đất nước này là đúng và là một việc phải làm ngay.
Cứ tới cuối tuần, dân Tây réo nhau xuống đường biểu tình chống chương trình chích ngừa dịch vũ hán và, tiếp theo, chống biện pháp kiểm soát có chích hay không bằng «thông hành y tế» (pass-sanitaire), tờ giấy có dấu hiệu đã chích ngừa của Cơ quan Bảo hiểm sức khỏe cấp qua Cơ quan tổ chức chích hoặc y sĩ gia đình hay dược sĩ.
Đầu năm 70, bạn đồng minh Huê kỳ quyết định bỏ rơi VNCH, không thực hiện cam kết rút quân, Việt-nam hóa chiến tranh, mặc nhiên giao Miền nam cho Hà nội. Ngày 30/04/75, quân Bắt Việt tiến vào Sài gòn, ngỡ ngàng. Dân chúng hoảng loạn bỏ chạy. Nhưng 14 năm sau thất bại nhục nhã ở Việt nam, bức tường Bá-linh bổng sụp đổ, kéo theo cộng sản Liên xô xuống hố, giúp Huê kỳ kết thúc cuộc chiến tranh lạnh làm kẻ chiến thắng.
Người Mỹ nói “Nothing is certain but tax and death” (Không ai tránh khỏi thuế và chết). Thuế mang ý nghĩa đặc biệt vì lịch sử nước Mỹ được thành hình từ ngày dân chúng thuộc địa nổi loạn chống nhà nước bảo hộ Anh Hoàng với khẩu hiệu bất hủ “Taxation without representation is tyranny” (Bị đánh thuế mà không được có đại biểu là bạo quyền.) Cho nên mỗi kỳ bầu cử đều tranh luận gay gắt về thuế má – nhưng không chỉ là cải cọ vô bổ vì khi thành luật sẽ theo đó móc từ túi tiền của mỗi người dân nhiều hay ít.
Đảng cộng sản VN cũng “khởi nghiệp” với những tuyên ngôn và khẩu hiệu nghe (tử tế) tương tự. Họ hô hào chống lại áp bức, bất công, kỳ thị … Nhờ vậy, họ vận động được quần chúng - kể cả những thành phần thiểu số, “ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng” - nổi dậy “giành lấy chính quyền về tay nhân dân.” Chả phải vô cớ mà Cách Mạng Tháng Tám vẫn được mệnh danh là “Cuộc Khởi Nghĩa Của Những Người Tay Không.” Chỉ có điều đáng phàn nàn là sau khi “những người tay không” nắm được quyền bính trong tay thì họ (tức khắc) hành xử như một đám côn đồ, đối với tất cả mọi thành phần dân tộc
Người lính Mỹ, trong nhân dáng hiên ngang, với những bước chân chắc nịch, đôi mắt nhìn thẳng và kỹ thuật tác chiến tuyệt vời. Nhưng người lính Mỹ cũng có trái tim biết rung động, biết nhớ thương, biết đau khổ như bạn và tôi. Xin đừng “thần thánh hóa” hoặc đòi hỏi những điều mà người lính Mỹ không thể thực hiện được; vì người lính Mỹ còn phải chu toàn bổ phận đối với người hôn phối, gia đình và người thân. Xin hãy nghĩ đến những trái tim tan vỡ trong mỗi gia đình, khi một người lính Mỹ gục ngã!
Như vậy, tuy không công khai, nhưng Bà Harris có quan tâm đến nhân quyền, các quyền tự do và vai trò của các tổ chức Xã hội Dân sự ở Việt Nam, một việc mà đảng và nhà nước CSVN luôn luôn chống đối và đàn áp. Tuy nhiên, tất cả báo Việt Nam, kể cả những báo “ôn hòa” như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao Động và Người Lao Động đều không đăng lời tuyên bố chống Trung Hoa của Bà Phó Tổng thống Harris.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.