Hôm nay,  

Chính Sách Hồi Giáo: Phần Hai

3/13/201200:00:00(View: 10429)
...Bin Laden đã chết, nhưng TT Obama vẫn phải chi cả tỷ để chống khủng bố...

Trên cột báo này tuần trước, chúng ta đã có dịp bàn về “chính sách Hồi Giáo”, đại khái là chính sách của chính phủ Mỹ đối với khối Hồi Giáo và Ả Rập nói chung. Tuần này, chúng ta bàn tiếp.

Chính sách Hồi Giáo bàn ở đây là một chính sách mới do TT Bush đề xuất ra sau vụ khủng bố tấn công 9/11, và TT Obama hầu như tiếp nối với ít nhiều thay đổi. Coi như là một chính sách mới để đối phó với nạn khủng bố của Hồi Giáo quá khích. Một mặt truy diệt khủng bố, mặt khác vuốt ve khối Hồi giáo và Ả Rập nói chung.

Ở đây kẻ viết này cần phải nói ngay cho rõ, có độc giả đọc bài viết tuần trước không kỹ, cho rằng tác giả đã “chủ quan”, có thành kiến bênh Cộng Hòa và chỉ trích TT Obama khi tác giả nhận định chính sách Hồi giáo mới đã hoàn toàn thất bại. Thật ra, tác giả đã viết rõ ràng chính sách này thất bại có nghiã là người đẻ ra chính sách này đã thất bại ngay từ đầu và người tiếp nối chính sách cũng thất bại luôn. Nôm na ra, tác giả nhận định chính TT Bush đã thất bại và TT Obama thất bại theo. Tác giả cũng viết rõ:

“...Từ đó mới thấy chính sách vuốt ve hay ca tụng Ả Rập và Hồi giáo của cả TT Bush lẫn TT Obama đều vô hiệu, không giải quyết được mâu thuẫn và không xoá bỏ được sự hận thù Do Thái và Mỹ.”

Nói “thất bại” không có nghiã là tác giả này dám chê bai TT Bush hay TT Obama là “ngu xuẩn”. Tác giả không ở trong tư thế dám chê một tổng thống nào “ngu xuẩn” hay “dốt” hết. Nước Mỹ có gần ba trăm triệu dân, chỉ có một người làm được tổng thống, khó có thể nói đó là một người “ngu xuẩn”! Trong lịch sử cận đại Mỹ, từ sau Thế Chiến Thứ Hai, có tổng cộng mười tổng thống, chỉ có bốn vị làm đủ hai nhiệm kỳ, trong đó có TT George W. Bush, cũng khó có thể nói ông là “ngu xuẩn”. Tác giả chỉ nhận định là “thất bại”, tức là không thành công, không đạt được mục tiêu, vì các tổng thống Bush và Obama đều tìm giải pháp cho nạn khủng bố lòng vòng phiá ngoài mà lại không dám đụng vào nguyên nhân xâu xa và thực sự, tức là mâu thuẫn Hồi Giáo và Do Thái xuất phát từ chuyện thành lập quốc gia Do Thái. Mà không dám đặt lại vấn đề này vì thực tế là không đặt vấn đề này lại được, không thể xóa Do Thái trên bản đồ Trung Đông được.

Trở lại câu chuyện chính sách Hồi Giáo, chẳng những TT Obama tiếp nối chính sách ngoại giao chung của TT Bush đối với khối Hồi Giáo và Ả Rập, mà ông cũng tiếp nối luôn cả chính sách quân sự và chính sách chống khủng bố.

Trên phương diện quân sự, Afghanistan và Iraq đều là những nước thuộc loại “hết thuốc chữa”, bắt buộc phải dùng biện pháp quân sự thay đổi chế độ đối nghịch qua một chế độ thân thiện với Mỹ.

Cuộc chiến tại Afghanistan được TT Bush phát động chẳng những để trừng phạt thủ phạm vụ 9/11 mà chủ ý là để không cho Al Qaeda có đất dung thân, tiếp tục huấn luyện quân cảm tử khủng bố. Cuộc chiến này do TT Bush khơi mào và được TT Obama nhìn nhận là cuộc chiến “cần thiết” (war of neccessity) và do đó, tiếp tục. Chẳng những tiếp tục mà còn đôn quân thêm để tìm chiến thắng, theo gương TT Bush đã làm tại Iraq. Nhiều người ủng hộ TT Obama đã chỉ trích việc TT Bush gây ra chiến tranh Afghanistan mà “quên” không nhắc đến chuyện chính TT Obama cũng chấp nhận cần phải diệt quân Taliban và Al Qaeda tại đây.

Có người chỉ trích TT Bush đã hợp tác và viện trợ tiền bạc cho “kẻ thù” Pakistan, là nước đã dung dưỡng và có quan hệ mật thiết với Taliban và Al Qaeda. Nói vậy là không nhìn thấy vấn đề gì hết. Pakistan là đồng minh lớn nhất của nhóm Taliban cầm quyền tại Afghanistan. Pakistan là cửa trước để quân Mỹ có thể vào đất Afghanistan để truy lùng Taliban và Al Qaeda, nhưng cũng là cửa sau để các nhóm này trốn khỏi sự truy lùng của Mỹ. Nếu không có sự hợp tác của chính quyền của TT Musharaf thì không có cách nào Mỹ mang quân vào đánh Afghanistan được, mà có vào được thì cũng không truy lùng được vì chúng sẽ trốn qua Pakistan, không khác gì Việt Cộng ngày xưa trốn qua Căm-Pu-Chia.

Phải nói là việc Pakistan trở mặt, quay qua hợp tác với Mỹ chống lại Taliban và Al Qaeda là một thành tích lớn nhất của chính quyền Bush. TT Musharaf đã lấy một quyết định cực kỳ nguy hiểm cho Pakistan và cho chính bản thân ông khi chịu hợp tác với Mỹ. Dĩ nhiên cái giá mà Mỹ phải trả không rẻ chút nào, cả mấy trăm triệu viện trợ kinh tế và quân sự một năm cho Pakistan, điều mà xứ này rất cần để chống đỡ Ấn Độ, cũng như chống đỡ Taliban và Al Qaeda sau khi chính quyền Pakistan đã trở mặt với chúng.

Cuộc chiến tại Iraq cũng do TT Bush khơi mào. Vấn đề ở đây phức tạp hơn ở Afghanistan nhiều. TT Bush và cả quốc hội lẫn dân cả nước Mỹ lúc đó vẫn còn trong tình trạng bị chấn động bởi vụ 9/11 nên không ai có thể dám lơ là trong vấn đề bảo vệ an toàn cho dân Mỹ. Tình hình lúc đó căng thẳng cực độ. Trong khi đó, ai cũng biết thái độ hung hãn của TT Saddam Hussein đối với Mỹ, và ai cũng nghĩ ông này có vũ khí giết người tập thể có thể đe dọa trực tiếp nước Mỹ và sinh mạng hàng ngàn hay hàng vạn dân Mỹ. Bất cứ một tổng thống hay một chính khách nào có tinh thần trách nhiệm cũng không dám lơ là mối đe dọa này sau khi xẩy ra vụ 9/11.

Cuộc chiến đánh Iraq được TT Bush đề xướng và được cả lưỡng viện quốc hội ủng hộ. Chẳng những vì thái độ hung hãn của Saddam, mà cũng vì cả thế giới lúc đó đều tin là Saddam có vũ khí giết người tập thể. Chẳng những CIA, mà các cơ quan tình báo Do Thái, Pháp, Anh, Đức, Nga, Tầu, Ả Rập, … tất cả đều tin như đinh đóng cột là Saddam có vũ khí giết người tập thể. Kể cả chính TT Clinton và các viên chức chính quyền Clinton, từ PTT Al Gore đến các bộ trưởng, dân biểu và nghị sĩ. Những tai to mặt lớn trong đảng Dân Chủ như nghị sĩ Hillary Clinton và các ứng viên TT sau này, các nghị sĩ John Kerry và John Edwards, đều bỏ phiếu ủng hộ việc đánh Iraq.

TT Obama sau này cũng luôn luôn khoe ông đã “sáng suốt” chống cuộc chiến Iraq ngay từ đầu. Chuyện này phải nói lại cho rõ. Khi ông lên tiếng chống việc đánh Iraq, năm 2002, ông còn đang tranh cử ghế dân biểu tại tiểu bang Illinois, đại diện cho một khu vực phiá nam Chicago. Đây là khu vực dân da màu. Mỹ khi đó không còn chính sách quân dịch bắt tất cả mọi người đi lính, mà trái lại chỉ có lính tình nguyện. Trong hoàn cảnh đó, dân da màu vì nhu cầu kinh tế, có khuynh hướng bị bắt buộc phải “tình nguyện” đi lính nhiều hơn dân da trắng, do đó, cũng có tỷ lệ tử vong nhiều hơn. Từ đó đưa đến tình trạng dân da màu có khuynh hướng chống chiến tranh –bất cứ chiến tranh nào- nhiều hơn dân da trắng. Ứng viên dân biểu Obama muốn thắng cử, bắt buộc phải có quan điểm chống chiến tranh – bất cứ cuộc chiến nào-. Đó là lý do khiến ông Obama bày tỏ quan điểm chống chiến tranh Iraq ngay từ đầu, nhưng không dám chống chiến tranh Afghanistan vì lý do quá hiển nhiên đây là cuộc chiến cả nước hoan hô vài tháng sau vụ 9/11.


Sau khi khám phá Saddam không còn vũ khí giết người tập thể nữa thì những người chống TT Bush bóp méo lịch sử, tố TT Bush phịa tin Saddam có vũ khí giết người tập thể để có cớ đánh Saddam. Chính trị gia lật lọng là chuyện bình thường trong xã hội này.

Sự thật, việc đánh Saddam là một sai lầm chỉ vì những tin tức tình báo sai lầm đưa đến lo sợ sai lầm, chứ không phải vì dầu hỏa. Có người còn nói TT Bush đánh Iraq để trả thù cho cha. Mấy người này chắc đọc Đông Châu Liệt Quốc hơi nhiều, cái thời vua chúa tác oai tác quái đánh nhau vì những lý do gia đình cá nhân đã qua cả ngàn năm rồi.

Sai lầm từ đầu, sau đó lại sai lầm vì cách thức điều hành cuộc chiến và bình định xây dựng lại nước Iraq hậu Saddam. Phải chờ đến gần bốn năm sau khi phát động cuộc chiến, đến năm 2006-07, thì TT Bush mới tìm ra phương cách giải quyết vấn đề, đưa đến chuyện đôn quân và thành công ổn định phần nào tình hình quân sự và chính trị tại Iraq, đưa đến việc rút quân Mỹ được TT Bush thỏa thuận với chính quyền Iraq và TT Obama hoàn tất.

Trong khi đó, cuộc chiến trực tiếp chống khủng bố Al Qaeda do TT Bush phát động, cũng được tiếp nối bởi TT Obama.

Một ngày sau khi nhậm chức, TT Obama ký sắc lệnh đóng cửa trại tù Guantanamo trong vòng một năm. TT Obama khi đặt bút ký sắc lệnh, đã không biết gì về sự phức tạp của vấn đề. Nói cách khác, ông đã lấy quyết định một cách hồ đồ vì mỵ dân. Đến khi nhìn rõ khó khăn, thì ông cũng chẳng có được giải pháp gì tốt đẹp hơn. Bây giờ, ba năm sau, trại tù vẫn chưa đóng cửa và không ai nhìn thấy giải pháp nào khác hết.

TT Obama từ ngày tranh cử, cũng đã mạnh mẽ chỉ trích TT Bush đã không tôn trọng “nhân quyền” và Hiến Pháp Mỹ, đã hành động vượt qua thẩm quyền của tổng thống khi ông cho phép các cuộc tra tấn, kiểu như chấn nước hay hạ nhục tù nhân tại trại tù Abu Ghraib, cũng như cho phép các cuộc bắt cóc và “ám sát” quân khủng bố tại các nước trong vùng Trung Đông. Ông đòi truy tố các viên chức của Bush ra tòa.

Ở đây, có hai vấn đề cần nhìn rõ. TT Bush chưa hề chủ trương tra tấn kiểu trấn nước -water boarding-, trái lại chỉ có đúng ba tù nhân bị các chuyên viên thẩm vấn CIA chấn nước, sau đó, khi biết được chuyện này, chính quyền Bush đã ra lệnh chấm dứt ngay, kề từ năm 2003. Cho rằng chuyện hạ nhục tù khủng bố trong trại tù Abu Ghraib là chủ trương của TT Bush chỉ là nói nhảm vì trái lại, đó là một bối rối lớn cho chính quyền Bush. Cũng như chuyện lính Mỹ mới đây tiểu tiện vào xác chết quân Taliban, không ai có thể nói đó là chủ trương của TT Obama.

Còn chuyện bắt cóc và ám sát các khủng bố ngoài nước Mỹ thì ai cũng biết TT Obama đã tiếp tục chính sách này của TT Bush. Các cuộc đột kích bằng máy bay không người lái –drone- đã tăng gấp mấy lần dưới chính quyền Bush. TT Obama không có lựa chọn nào khác vì đây là cách duy nhất để diệt trừ khủng bố.

TT Obama thật ra còn đi xa hơn TT Bush. Ông ra lệnh giết những tên khủng bố này, cho dù những tên khủng bố đó là những công dân Mỹ như hai cha con giáo sĩ Awlaki. Trả lời chỉ trích của những nhóm bảo vệ nhân quyền, bộ trưởng Tư Pháp Eric Holder mới đây đã tuyên bố thẳng thừng những tên khủng bố không được Hiến Pháp bảo vệ, cho dù chúng có quốc tịch Mỹ cũng vậy, do đó, chính quyền Obama có quyền truy lùng và giết chúng tại bất cớ đâu, không cần theo đúng thủ tục pháp lý áp dụng cho công dân Mỹ, đúng theo Hiến Pháp Mỹ.

Đây là một cách nhìn mà TT Bush không dám có, chưa làm mà đã bị đảng Dân Chủ và khối cấp tiến, trong đó có chính TT Obama, đả kích vi phạm nhân quyền, vi phạm Hiến Pháp. Vậy mà bây giờ khi TT Obama nói trắng ra khủng bố không được Hiến Pháp bảo vệ, nằm ngoài thủ tục pháp lý Mỹ, thì không nghe tiếng nói nào trong phe cấp tiến hay truyền thông dòng chính phản đối nữa.

Ở đây, xin nói cho rõ, kẻ viết này hoan nghênh cách nhìn mới của TT Obama cùng với các biện pháp truy lùng khủng bố của ông, chỉ tiếc rằng cái nhìn đó đã không được áp dụng cho TT Bush, là người đã bị trói tay chặt chẽ hơn trong cuộc chiến chống khủng bố của ông.

Kẻ viết này cũng hoan nghênh thành quả giết được Bin Laden của TT Obama. Không ai chối cãi sự kiện này. Vấn đề là đặt công trạng đúng chỗ. Ghi nhận công trạng của TT Obama nhưng cũng cần ghi nhận công trạng của TT Bush là người đã bắt đầu cuộc truy lùng Bin Laden.

Nói rằng TT Bush tuyên bố “không quan tâm đến chuyện giết Bin Laden” để chỉ trích ông đã dung tha cho Bin Laden trong khi TT Obama mới thực sự theo đuổi truy sát Bin Laden là mang một câu nói ra ngoài khuôn khổ câu chuyện để xuyên tạc. Ý TT Bush chỉ muốn nói là ông có cái nhìn rộng lớn hơn về cuộc chiến chống khủng bố, muốn tìm một giải pháp toàn cầu và lâu dài để diệt hẳn đe dọa khủng bố. Giết một cá nhân Bin Laden có thể thỏa mãn việc trừng phạt hung thủ của vụ tấn công 9/11, nhưng không giải quyết được vấn đề khủng bố toàn cầu. Bằng chứng hiển nhiên là Bin Laden đã chết, nhưng TT Obama vẫn phải chi cả tỷ để chống khủng bố, thiên hạ ra phi trường vẫn bị cởi giầy, rờ mò khắp người, tất cả chúng ta cũng vẫn còn bị tình nghi là khủng bố cần khám xét cho kỹ, chẳng có gì thay đổi.

Nói tóm lại, chính sách đối phó với nạn khủng bố nói riêng, và khối Hồi Giáo/Ả Rập nói chung của TT Obama chỉ là một tiếp nối của chính sách của TT Bush. Chính sách đó cho đến nay đã chứng tỏ chỉ thành công phần nào, ngăn chặn được những cuộc tấn công khủng bố tại Mỹ, nhưng vẫn chẳng chấm dứt được nạn khủng bố, và chẳng gỡ được tình trạng rối bù của vùng Trung Đông. Giấc mộng của TT Bush biến Iraq và Afghanistan thành những tiền phương của tự do dân chủ theo mô thức Mỹ tại cả vùng Trung Đông hiển nhiên là viễn vông, không thực hiện được. Chẳng qua cũng chỉ vì nguyên nhân xâu xa là sự tồn vong của Do Thái đã không được giải quyết theo ý muốn của khối dân Hồi Giáo. Bao nhiêu súng đạn, tiền viện trợ và lời xin lỗi cũng không khiến khối dân Hồi Giáo và Ả Rập thân thiện hơn với Mỹ hơn, hay chạy theo mô thức tự do dân chủ Mỹ.

Điều đáng nói là cho đến nay, vẫn chỉ là mò đường. Chính quyền Cộng Hoà hay chính quyền Dân Chủ cũng vậy, chưa bên nào có giải pháp cải thiện được quan hệ Mỹ với khối Hồi Giáo. (11-3-12)

Vũ Linh
Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng mỗi Thứ Ba trên Việt Báo.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
Chiều Thứ Sáu cuối cùng của Tháng Năm 2025, tỷ phú nhất thế giới Elon Musk, người đứng đầu Bộ Hiệu Quả Chính Phủ (DOGE) bước vào Phòng Bầu Dục. Musk đội nón kết đen có chữ MAGA, mặc áo thun đen có chữ “The Dogefather,” vest đen, đứng kế Tổng thống Trump – chỗ đứng quen thuộc của Musk từ khi Trump tái đắc cử. Hình truyền thông từ Phòng Bầu Dục đưa đi cho thấy, thỉnh thoảng, đôi mắt của Elon Musk nhắm nghiền với vết bầm trên mắt phải chưa tan, đầu lắc lư, lắc lư. Không biết là ông ta đang tận hưởng không khí phủ đầy vàng của Bạch Cung hay tâm hồn đang…phiêu diêu ở Sao Hỏa? Đó là ngày cuối cùng được cho là ngày làm việc của Musk trong Tòa Bạch Ốc, theo cách chính quyền Trump thông báo.
Dù cụm từ này mới phổ biến trong thế kỷ 21, DEI thực ra là một là chương mới trong hành trình dài kiến tạo một xã hội công bằng của nước Mỹ. Các giá trị mà DEI hướng tới đã từng được khẳng định trong các văn kiện lập quốc, và tiếp tục được củng cố thông qua những cột mốc quan trọng như Đạo Luật Dân Quyền năm 1964, các Chính Sách Nâng Đỡ Người Thiểu Số, cùng những phong trào đấu tranh vì công bằng sắc tộc, bình đẳng giới, quyền lợi người tàn tật, cựu quân nhân và di dân
Trong lịch sử cuộc chiến Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhân danh dân tộc để lãnh đạo toàn diện công cuộc đấu tranh giành độc lập và cuối cùng thống nhất đất nước vào năm 1975. Sau 50 năm, đất nước đang chuyển mình sang một kỷ nguyên mới và Đảng vẫn còn tiếp tục độc quyền quyết định vận mệnh cho dân tộc. Trong bối cảnh mới tất nhiên đất nước có nhiều triển vọng mới. Thực ra, từ lâu, đã có hai lập luận về vai trò của Đảng đã được thảo luận.
Ngày 18 Tháng Năm 2025, báo điện tử Tuổi Trẻ đưa tin ông Phạm Minh Chính (thủ tướng nước Việt Nam) hướng dẫn Bộ Nội vụ Việt Nam chuẩn bị phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu, đóng góp, xây dựng, bảo vệ đất nước. Phong trào thi đua này dựa trên nội dung trọng tâm, cốt lõi của nghị quyết 68 của Bộ Chính trị Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện nghị quyết này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.