Hôm nay,  

Sổ Tay Thượng Dân Tưởng Năng Tiến:

30/11/201100:00:00(Xem: 6350)

Sổ Tay Thượng Dân Tưởng Năng Tiến:

Chuyện Chuột & Người

Cách đây chưa lâu, có bữa, ký giả Hoàng Nam của tờ Tiền Phong hớn hở đi tin:

“Ngày 6 tháng 9 năm 2011 Tổ chức Bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (FFI) cho biết, một nhóm các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện 2 cá thể sống (một đực, một cái) của loài thú được cho là đã tuyệt chủng cách đây 11 triệu năm tại vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình).

“Tin cho hay, các nhà khoa học đã phát hiện trong những loài chuột rừng được đồng bào Rục, xã Thượng Hóa (Minh Hóa) bẫy bắt để ăn thịt có loài chuột đá, tên khoa học Laonastes aenigmamus. Trước năm 2005, khi xem xét các mẫu hóa thạch, các nhà khoa học khẳng định loài chuột đá đã tuyệt chủng cách đây 11 triệu năm. Loài chuột đá này có mình như chuột, đuôi như đuôi sóc, lông mịn như cầy và người Rục gọi là con “Ninh Cùng”.

Tôi vốn tuổi Mẹo nên không quan tâm gì (mấy) đến sự sống còn của chuột, bất kể là loại chuột gì. Hơn nữa, điều mà ký giả Hoàng Nam vừa mô tả là “một phát hiện quan trọng” (nói nào ngay) cũng không quan trọng gì cho lắm.

Trước đó, vào ngày 15 tháng 12 năm 2008, BBC đã có chưng hình loại chuột này, với lời chú thích rất bất ngờ: “The Laotian rock rat (Laonastes aenigmamus) was first recorded by scientists at a food market in Laos. Remarkably, researchers say this species is the sole survivor of an ancient group of rodents understood to have died out 11 million years ago.

Nguồn ảnh: BBC

Coi: loài chuột đá mà thiên hạ cứ tưởng đã tuyệt chủng từ lâu (thiệt ra) đang được dân Lào bầy bán cả sâu ngoài chợ, mua về nhậu lai rai mệt nghỉ, có qúi hiếm gì đâu mà phải làm rầm rĩ vậy - mấy cha? Tuy thế, cái địa danh “xã Thượng Hoᔠ- trong bài viết thượng dẫn - lại cứ khiến tôi băn khoăn mãi. Nó nhắc nhớ đến một bài viết khác (“Vào Rục Ứa Nước Mắt”) của nhà báo Dương Minh Phong - trên blog Cu làng cát:

“Cuối tuần, gọi mấy nhà báo lão luyện lên Rục (Thượng Hoá, Minh Hoá, Quảng Bình) anh nào cũng ởm ờ, mình lên núi, bà con gọi điện về nói hết gạo, ăn sắn cầm hơi, ăn cả củ nhút, củ mài trong lũ...

Vào chạn bếp đồng bào, lạnh tênh. Bữa trưa nhiều gia đình chỉ có sắn và sắn, Nhà khá hơn có chút ngô. Nhà tốt hơn chút còn hai bữa gạo nấu cháo cho trẻ con ăn.

Bữa trưa. Ảnh Dương Minh Phong chụp vào tháng 10 năm 2011.

Nhiều người ăn sắn đến gầy rạc người. Hỏi Cao Thị Thanh thèm cơm không? Thanh nói: “Cơm mà không thèm thì thèm chi”. Thèm thịt cá không:

Thanh: “Thèm chơ, nhưng chừ thèm cơm nhất, thịt cá mơ cũng không có mô, chừ thèm cơm thôi, mình đang có thai, thèm cơm quá”. Thật sự giấc mơ nhỏ của người Rục chẳng lớn lao gì, họ không dám mơ bữa ăn có thịt cá như người dưới xuôi, mà mơ có cơm, cơm họ thèm đến quặn lòng, họ nói thèm cơm mà nghe thắt ruột.

Với họ có bữa cơm là ấm bụng, có bữa cơm gân cốt như mạnh thêm lên, có bữa cơm họ phấn chấn tinh thần hơn. Một ngày vào Rục, ứa nước mắt khi nhà mình bưng bát cơm trắng, thức ăn đôi lúc chê vợ nấu dỡ, còn đồng bào, thèm cơm đến lạ lùng. Họ từng được bộ đội biên phòng cấp gần 6kg gạo chống đói trung lũ, nhưng mỗi khẩu như thế bị lũ quần 40 ngày, ăn chỉ trong chưa đầy năm ngày hết veo. Bởi bữa ăn của họ không có thức ăn ngoài muối trắng đâm ớt. Cơm chấm ớt ăn qua ngày, hết năm ngày ngồi bóc sắn nhai đắng họng.”

Bữa trưa của trẻ con ngày mình vào Rục. Ảnh Dương Minh Phong chụp tháng 10/2011

Trên blog Quê choa, với tựa đề là “Người Rục Đang Đói,” nhà văn Nguyễn Quang Lập còn cho biết thêm vài tình tiết (ly kỳ) khác nữa:

“Nhà báo Dương Minh Phong đã gắn bó với người Rục hơn chục năm nay. Năm 2006, anh đã cùng các nhà báo Phan Phương, Nguyễn Quang Vinh đấu tranh vô cùng gian khổ chứng minh người Rục đang đói trong khi cả tỉnh ủy lẫn UBND tỉnh Quảng Bình ra sức che đậy việc bỏ đói người Rục. Việc này Nguyễn Quang Vinh đã viết phóng sự 9 kì có tên Sự thật, ai muốn xem bấm vào đây: Sự thật kì 1, Sự thật kì 2, Sự thật kì 3, Sự thật kì 4, Sự thật kì 5, Sự thật kì 6, Sự thật kì 7, Sự thật kì 8, Sự thật kì 9...”

Loạt bài phóng sự này có nhiều đoạn, và nhiều hình ảnh, xem khó mà cầm nước mắt:

“Chúng tôi vào thôn.

Khủng khiếp.

Tôi không hình dung được, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa lại có một thôn sống trong cảnh lay lắt như vậy. Tan hoang. Nhà nào cũng đói. Nhà chị Cao Thị Liên đang ngồi ôm đứa con nhỏ, đói lả, bên chị là cái nồi chứa những con nòng nọc. Đó là món ăn duy nhất còn lại trong ngày của nhà chị.”

Chị Cao Thị Liên và rổ đựng nòng nọc. Ảnh Nguyễn Quang Vinh chụp tháng 10 năm 2006.

Nhà ông Cao Xuân Hiếu, 7 người đang ngồi, nằm trên nền đất, đói lả. Nhà nào cũng như vậy. Cái đói bao trùm.

Ông Cao Xuân Hiếu nói: “Đói lắm cán bộ ạ.” Ảnh Nguyễn Quang Vinh chụp tháng 10 năm 2006.

Theo Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia:

“Tộc người Rục được một tiểu đội Công an Quảng Bình phát hiện vào ngày 12 tháng 8 năm 1959 trong hang sâu tại vùng hang động Phong Nha - Kẻ Bàng thuộc xã Thượng Hóa huyện Minh Hóa (Quảng Bình) gồm 11 hộ với 34 người. Người Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở hang sâu, săn bắt, hái lượm, nhưng họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú với những nhạc cụ núi rừng như đàn trơ bon, đàn môi, sáo dọc và làn điệu cà lưm cà lềnh. Do tập quán lạc hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng sâu, người Rục có nguy cơ suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.

Trong hơn 40 năm, người Rục đã làm một cuộc hành trình về với cộng đồng. Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 414 người và được phân bố trong bốn bản Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò O - Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa, ở xen với các tộc như Sách, Mày, Kinh.”

“Cuộc hành trình về với cộng đồng” của người Rục được GS.TS Trần Trí Dõi, chuyên gia nghiên cứu về dân tộc Chứt, đánh giá khá cao:

“Với một tộc người đang sống hồng hoang, mặc vỏ cây, lấy lửa bằng đá thì nửa thế kỷ hoà nhập cộng đồng của người Rục là quãng thời gian ngắn ngủi. Cộng đồng đã làm được nhiều việc cho người Rục và người Rục cũng đã tiến được chặng đường rất dài.”

“Những chặng đường tiến rất dài” này được nhà báo Dương Minh Phong, tác giả bài viết dẫn thượng (“Vào Rục Ứa Nước Mắt”) ghi nhận với đôi mắt dè dặt hơn - chút xíu:

“Người Rục rời hang đá 50 năm đã có chi bộ đảng, hội phụ nữ, hội thanh niên, đoàn viên, hội phụ nữ, hội nông dân tức là đủ thứ hội. Mình thấy thế thì quả là thiên tài cho ai sắp xếp được ở đây các hội này. Nhưng hội đầy đủ thế mà bà con vẫn 6 tháng không có gạo ăn là nổi đau vô cùng. Nhà nước trợ cấp 6 tháng gạo, mỗi khẩu 15kg một tháng cho người Rục, 6 tháng còn lại chỉ biết sắn và củ quả rừng.”

Khách quan mà nói thì “những chặng đường tiến” của người Rục - rõ ràng - dài hơn, và nhanh hơn, những bước (“chân dép lốp đi vào vũ trụ”) của đồng bào dưới miền xuôi nhiều lắm. Họ phóng (cái rẹt) từ Thời Kỳ Săn Bắt, nhẩy băng qua qua giai đoạn bán định canh và định canh, để bước (cái rột) lên Thời Kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ trong một thời gian rất ngắn: năm mươi năm chẵn. Kỷ lục này thiệt là đáng kể, đáng nể và cũng (vô cùng) đáng ngại!

Không hiểu trước đó thì người Rục sinh sống ra sao trong hang động giữa rừng sâu nhưng từ khi được “phát hiện” (vào năm 1959) thì chỉ qua năm sau là họ bị đói khùng luôn - ”từ năm 1960 đến nay” theo như ghi nhận của nhà văn Nguyễn Quang Lập.

Hơn nửa thế kỷ qua người Rục vẫn tồn tại như một phép lạ, ở tỉnh Quảng Bình - nơi mà “cả tỉnh ủy lẫn UBND tỉnh ra sức che đậy việc bỏ đói” họ. Phép lạ này chắc không kéo dài mãi được. Ngoài loài chuột đá ( Laonastes aenigmamus) ở Việt Nam, tôi trộm nghĩ, Tổ Chức Bảo Tồn Động Thực Vật Hoang Dã Quốc Tế cũng ghi thêm tên người dân tộc Rục vào danh sách những chủng loại có nguy cơ bị biến mất khỏi mặt đất này.

Trẻ thơ người Rục. Ảnh Lam Phong/SGTT

Cá nhân tôi không đủ từ tâm, cũng như lòng bao dung, để quan tâm gì (nhiều) đến sự tồn vong của chuột. Sự hiểu biết vô cùng giới hạn của một thường dân cũng không giúp tôi hiểu thấu được sự hiện diện của loài chuột đá quan trọng ra sao với hệ thống sinh thái của quả địa cầu. Tôi chỉ biết thêm được (đôi điều) về những đồng bào người Rục qua Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, như sau:

“Người Chứt, còn gọi là người Rục, người Sách, người A rem, người Mày, người Mã liềng, người Tu vang, người Pa leng, người Xe lang, người Tơ hung, người Cha cú, người Tắc cực, người U mo, người Xá lá vàng, là một dân tộc ít người sinh sống tại Lào và Việt Nam..

Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với tiếng Việt. Tiếng Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì gần gũi với tiếng Kinh nguyên thủy. Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt như 'bảo tàng lưu giữ các giai đoạn phát triển của tiếng Việt. Văn hóa của người Chứt cũng cho phép tìm lại lịch sử phát triển của người Việt cổ.”

Nhất định mang chi bộ đảng, hội phụ nữ, hội thanh niên, đoàn viên, hội phụ nữ, hội nông dân ... để xen vào đời sống của những bộ tộc này (cho bằng được) là một việc làm ngu xuẩn. Còn bỏ họ sống dở (và chết dở) trong đói lạnh lại là một tội ác. Trong cái tội ác tầy đình này chưa biết ai là chính phạm nhưng tất cả chúng ta sẽ đều là tòng phạm.

Theo hướng dẫn của nhà văn Nguyễn Quang Lập “Ai có điều kiện hãy cùng nhau góp gạo cứu đói cho người Rục, hãy Bấm vào đây!” Chúng tôi cũng sẽ có bài viết kế tiếp về Thời Đại Bấm Nút (đáng buồn), vào tuần lễ tới, cũng trên diễn đàn này.

Tưởng Năng Tiến - RFA

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.