Hôm nay,  

Minh Triệu, Viết Bằng Trái Tim

7/13/201100:00:00(View: 8210)

Minh Triệu, Viết Bằng Trái Tim

Tam Giang Hoàng Đình Báu

Cách đây một tuần chị Minh Đức, mẹ của Minh Triệu gọi báo cho vợ chồn tôi biết cháu Minh Triệu khó thở và sắp đưa đi cấp cứu. Nhưng sau đó, chị lạ báo Minh Triệu đã khá lại rồi. Mới hôm qua chị lại cho vợ chồng tôi tin mừng Minh Triệu được giải thưởng truyện ngắn Viết Về Nước Mỹ do nhật báo Việt Báo ở Nam California tổ chức và mời vợ chồng tôi đến tham dự lể phát giải thưởng vào ngày Chủ Nhật 31 tháng 7 năm 2011 tại Garden Grove Community Center.

Từ xúc động nầy đến xúc động khác, tôi không sao giữ được cảm giác mãnh liệt của tôi đối với Minh Triệu người mà tôi được nhà văn Bùi Ngọc giới thiệu để cùng với Hoàng Sa HmH, Tạ Thạc và Bùi Ngọc viết tập Truyện ngắn và Tùy Bút với tiêu đề “Biển Vẫn Rạt Rào” xuất bản tại California ngày 1 tháng 9 năm 2004 với lời mở đầu của anh Bùi Ngọc nói về Minh Triệu như sau: “Anh là người trẻ tuổi và tài hoa. Số lượng anh đóng góp không nhiều.

Tuy nhiên độc giả sẽ tìm thấy nơi những hàng chữ viết của anh những lời lẽ tha thiết, nồng nàn và lắng đọng. Ở đó tình cảm của anh cũng được thể hiện rất chân tình và ‘rạt rào’ như những đợt sóng biển”. Rất tiếc nhà văn Bùi Ngọc đã không còn nữa để hãnh diện nhìn thấy người bạn văn của chúng ta Minh Triệu đã viết tự truyện “Bao La Tình Mẹ” và đã trúng giải.

Thật đúng như lời nhận xét của anh, Minh Trệu là một nhà văn trẻ tuổi và tài hoa.

Đọc lại ba bài viết của Minh Triệu bảy năm về trước như bài “Khúc Tình Đơn”, Minh Triệu đã có mối tình đầu với Thảo, lúc đó Minh Triệu đã bị bại liệt nặng nên phải rời ghế nhà trường năm 14 tuổi. Thảo như một thiên thần đem hào quang xua tan bóng đen của đời mình. Và từ đó Minh Triệu biết làm thơ.

Bài thơ đầu tiên là bài “ Xuân Đầu Tiên” nghe rộn rã mà cũng xót xa:

“Ta đợi chờ em từ bấy lâu

“Nàng xuân biền biệt mãi nơi nào"

“Xuân vẫn chưa đến, ta còn đợi

“Một kiếp trăm năm cũng gặp nhau.

“Xuân đến bất ngờ tưởng giấc mơ

“Nhạc lòng rộn rã khúc hoan ca

“Mai vàng rực rỡ khoe hương sắc

“Mừng đón giáng xuân tươi mặn mà

“Mùa xuân là em đến với tôi

“Đôi mắt lung linh ánh sao trời

“Âu yếm nhìn tôi sâu vời vợi

“Nhìn thấu nỗi đau tâm hồn tôi

“Là bờ môi hồng thắm màu tim

“Nụ cười duyên dáng, tóc nhung huyền

“Đem cả mùa xuân đang lồng lộng

“Xuân của riêng tôi, xuân đầu tiên.”

Tiếp đến là bài : “Anh Viết Tên Em”

“Anh viết tên em và tên anh

“Chung một vần ‘T’ đẹp chữ Tình

“Tình em thơ ngây như mây trắng

“Tình anh cao ngất tựa trời xanh

“Mong ước chúng mình mãi có nhau

“Nắng chiều sương sớm, lúc mưa

ngâu

“Em về nơi đâu anh ở đó

“Tình mình muôn kiếp đẹp trăng sao”

Nhưng định mệnh trớ trêu, Minh Triệu phải theo gia đình qua Hoa Kỳ theo M diện HO. Số phận không cho anh một thể xác khỏe mạnh nhưng anh vẫn tự tạo cho mình một tinh thần mạnh mẽ để sống. Anh đã ghi tên vào đại học cộng đồng Mesa College với môn học ‘computer’ và hy vọng một ngày nào đó sau khi thành đạt sẽ gặp lại Thảo. Thời gian trôi nhanh. Minh Triệu được tin người yêu đi lấy chồng, cảm thấy buồn và tự nhủ: “Dù yêu Thảo nhiều đến đâu anh cũng không thể mang hạnh phúc đến cho Thảo được”.

Và nay Minh Triệu chỉ còn là chiếc bóng bên lề cuộc đời của nàng.

Bài viết thứ hai “Trái Tim Người Mẹ” đã nói hết tình mẫu tử khi vừa mới lọt lòng: “Chúa đã ban cho người một con trai đầu để dâng Ngài như ý nguyện. Thế nhưng tôi lại bị bệnh ngặt nghèo. Căn bệnh bại liệt toàn thân đã thiêu hủy sức khoẻ của tôi khi tôi đang còn thơ ấu, bắt tôi phải song hành kết bạn với chiếc xe lăn suốt đời. Chúa đã nhận lời cầu xin của mẹ tôi. Chúa đã chọn tôi; nhưng theo ý Ngài chứ không theo ý mẹ tôi”. Thế rồi khi qua định cư tại Mỹ, chị Minh Đức lái xe đưa con cùng đến trường Mesa College để học không may gặp tai nạn lưu thông nhưng may mắn chị thoát chết. Sau ba năm, chị tốt nghiệp Medical Assstant. Minh Triệu tốt nghiệp AA Degree ngành Computer Information Science sau 6 năm vất vả tưởng chừng như không thể nào vượt qua được. Sau khi tốt nghiệp, bệnh tình của Minh Triệu càng ngày càng suy sụp. Bệnh Muscular Dystrophy (bệnh teo bắp thịt) đã làm cho hai buồng phổi của Minh Triệu ngày càng teo lại, làm ngộp và khó thở. Do đó bác sĩ phải mổ chỗ cổ, đặt ống gắn máy để trợ giúp cho sự hô hấp. Nay cuộc sống của Minh Triêu hoàn toàn nhờ vào máy móc và sự săn sóc của mẹ. Đôi lúc Minh Triệu không muốn sống vì thân xác đau đớn và tâm hồn vô cùng thác loạn nhưng nhờ có mẹ bên cạnh an ủi: “Con đi rồi, mẹ biết sống cùng ai, biết sống cho ai nữa" Triệu ơi! Mất con rồi đời mẹ thành vô nghĩa, hãy vì mẹ, can đảm lên mà sống! Mẹ dìu con, con tựa mẹ, nâng đỡ nhau”. Hai hàng lệ của mẹ hòa với nước mắt của con như làm thành một giao ước không lời.

Mẹ quả là dòng suối dịu hiền, bài hát thần tiên, bóng mát trên cao, ánh đuốc trong đêm! Mẹ cũng là buồng chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau. Đó chính là trái tim của mẹ.

Bài thứ ba là “Biển Vẫn Rạt Rào” cùng với tên của tập truyện “Biển Vẫn Rạt Rào”. Đây là truyện ngắn do óc tưởng tượng của tác giả Minh Triệu.

Mặc dù chưa bao giờ xuống ghe, xuống biển nhưng Minh Triệu đã viết một câu chuyện tình vượt biên thật cảm động. Đến giờ xuống ghe Minh Triệu đành bỏ lại người yêu tên Vân ở lại vì nàng đang bệnh nặng. Trước khi từ giã người yêu, Minh Triệu khẳng định sự chung thủy và hứa sẽ đón chờ nàng bên kia bờ đại dương ngập tràn ánh sáng. Còn Vân thì chắc chắn khi khỏi bệnh sẽ đi chuyến sau. Thế rồi khi Minh Triệu đến được đảo Bi-Đông, xem như đến được bến bờ tự do, chờ mãi chẳng nghe thấy tin tức gì về người yêu của mình. Suốt ngày anh lang thang quanh đảo một mình như cố đi tìm Vân. Một hôm, Minh Triệu nhận thư của gia đình báo tin: Vân đã xuống tàu, đi vượt biên, nay đã hai tháng mà chưa có tin tức gì. Anh vùng dậy như người điên chạy băng ra biển, nước mắt tuôn dài và la lớn: “Vân ơi!

Vân ơi! Anh đây, em đâu rồi"”. Chỉ có sóng biển ngoài khơi chạy vào thì thầm như đáp lại lời gọi: “Em là biển, lòng em là đại dương che chở thương yêu anh mãi mãi nghìn đời”. Những ngày sau, chiều về bên biển vắng, chỉ có tiếng gió trên những ngọn dừa làm nghiêng ngả những tàu lá xanh như cánh tay vẫy chào lưu luyến người đi. Anh xếp những trang giấy thành những chiếc thuyền nhỏ rồi nhẹ nhàng thả xuống biển. Con thuyền nhỏ nhấp nhô, chòng chành sau cơn sóng nhẹ rồi từ từ xa bờ mang nặng trĩu lời nhắn của anh với người vợ ngoan hiền không bao giờ cưới. Minh Triệu thì thầm: “Thuyền anh thì đã cập bến mà biển em thì vẫn mãi rạt rào thương nhớ theo anh. Xin em hãy ngủ yên, một giấc ngủ ngàn đời. Anh sẽ sống xứng đáng với tình em, sẽ mãi mãi chung thủy với em như sóng biển luôn yêu bờ cát trắng. Vân ơi!”.

Câu chuyện tình vượt biên thật lãng mạn nhưng cũng thật đớn đau. Tuy là hư cấu nhưng rất trùng hợp với muôn ngàn chuyện tình của những thuyền nhân không được may mắn.Xin thắp một nén hương lòng cho những người đã nằm xuống trong lòng đại dương.

Cuối cùng với sức khoẻ yếu kém, Minh Triệu đã viết bài “Bao La Tình Mẹ” để dự thi, anh nằm xe lăn mà viết trên computer, nhưng gỏ phím và bấm ‘mouse’ rât khó khăn đôi lúc tuột tay phải gọi mẹ đến giúp để ngón tay lại trên bàn phím. Minh Triệu cũng đã sáng tác nhạc khúc “Ánh sao Tình Mẹ”. Bài hát nầy đã được các ca sĩ Kim Tử Long và Mai Thiên Vân hát.

Những lần gặp Minh Triệu từ San Diego về thăm khu Little Sài Gòn,Nam Cali, tôi thấy cả gia đình, ngoài mẹ vừa là một cô ý tá thường xuyên bên cạnh săn sóc Minh Triệu như một em bé sơ sinh, còn có em gái và em rể đi theo để lo cho Minh Triệu giống như những nhân viên cấp cứu bên cạnh chiếc xe ‘Ambulance’của bệnh viện.Mỗi lần gặp tôi Minh Triệu đều vui vẻ, lễ phép hỏi: “Kính chào bác,bác có khoẻ không, độ nầy bác có sáng tác thêm gì nữa không"”. Nhiều lần tiếp xúc với Minh Triệu bên cạnh chiếc xe lăn tôi thấy đôi mắt Minh Triệu luôn sáng ngời mặc dù thân bất động, tiều tụy, da bọc xương, quanh người toàn dây nhợ và máy móc. Vậy mà Minh Triệu có một sức mạnh nội tâm kỳ lạ chiến đấu và đương đầu với mọi nghịch cảnh. Chị Minh Đức, mẹ của Minh Triệu là con người sống rất hài hòa với mọi người chung quanh. Cả hai mẹ con vui sống và rất có tình nghĩa.Có lẻ đó chính là sự kiên trì trong niềm tin tôn giáo.

Tam Giang Hoàng Đình Báu

Calfornia 14-7-2011

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chỉ còn vỏn vẹn chưa đầy ba tuần nữa là ngày bầu cử. Cho đến hôm nay, ai nói, cũng đã nói. Ai làm, cũng đã làm. Nói nhiều hay ít, và làm nhiều hay ít, cũng đã thể hiện rõ ràng. Trừ khi, như một cựu ký giả của tờ Sóng Thần trước năm 1975, hiện đang sinh sống ở Virginia, nói rằng: “Có thể họ không lên tiếng trước công chúng, nhưng ngày bầu cử, lá phiếu của họ dành cho đảng đối lập.” Vị cựu nhà báo này muốn nói đến cựu tổng thống Hoa Kỳ, George W Bush, vị tổng thống duy nhất thuộc đảng Cộng hoà còn tại thế.
Hoa Kỳ luôn được tôn vinh là một cường quốc tích cực tham gia trong mọi sinh hoạt chính trị quốc tế, nhưng lịch sử ngoại giao đã chứng minh ngược lại: Hoa Kỳ từng theo đuổi nguyên tắc bất can thiệp và cũng đã nhiều lần dao động giữa hai chủ thuyết quốc tế và cô lập. Trong việc thực thi chính sách đối ngoại trong thế kỷ XX, Hoa Kỳ mới thực sự trực tiếp định hình cho nền chính trị toàn cầu, lãnh đạo thế giới tự do và bảo vệ nền an ninh trật tự chung. Nhưng đối với châu Âu, qua thời gian, vì nhiều lý do khác nhau, càng ngày Hoa Kỳ càng tỏ ra muốn tránh xa mọi ràng buộc càng tốt.
Tiếng Việt không ít những thành ngữ (ví von) liên hệ đến đặc tính của nhiều con vật hiền lành và quen thuộc: ăn như heo, ăn như mèo, nhát như cáy, gáy như dế, khóc như ri, lủi như trạch, chạy như ngựa, bơi như rái, khỏe như voi, hỗn như gấu, chậm như rùa, lanh như tép, ranh như cáo, câm như hến …Dù có trải qua thêm hàng ngàn hay hàng triệu năm tiến hóa, và thích nghi để sinh tồn chăng nữa – có lẽ – sóc vẫn cứ nhanh, sên vẫn cứ yếu, cú vẫn cứ hôi, lươn vẫn cứ trơn, đỉa vẫn cứ giai, thỏ vẫn cứ hiền, cá vẫn cứ tanh, chim vẫn cứ bay, cua vẫn cứ ngang (thôi) nhưng hến thì chưa chắc đã câm đâu nha.
Khi thiên tai đổ xuống, thảm họa xảy ra, và con người với khả năng chống đỡ có giới hạn, thì những gì nhân loại có thể làm là cứu nhau. Ngược lại với nguyên tắc tưởng chừng như bất di bất dịch của một thời đại mà con người luôn hướng đến hòa bình và lương thiện, lại là các thuyết âm mưu tạo ra để lan truyền thù ghét và mất niềm tin vào chính quyền đương nhiệm. Đại dịch Covid-19 vĩnh viễn là sự thật của lịch sử Mỹ, trong triều đại của Donald Trump. Tòa Bạch Ốc của Trump lúc ấy, qua lời mô tả của những nhân viên trong ngày dọn dẹp văn phòng làm việc để bắt đầu bước vào giai đoạn “work from home” là “ngôi nhà ma.” Giữa lúc số người chết tăng theo từng giây trên khắp thế giới thì Trump vẫn điên cuồng xoay chuyển “tứ phương tám hướng” để kéo người dân quay về một góc khác của đại dịch, theo ý của Trump: “Covid không nguy hiểm.”
Mặc dù các bác sĩ tâm thần có bổn phận bảo mật các thông tin sức khỏe tâm thần do bệnh nhân tiết lộ, nhưng hầu hết các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều có luật bắt buộc hoặc cho phép bác sĩ tâm thần tiết lộ thông tin bí mật khi bệnh nhân có triển vọng gây tổn hại cho cộng đồng...
Trong tuần lễ cuối cùng của chiến dịch tranh cử tổng thống vào năm 1980 giữa Tổng Thống Đảng Jimmy Carter (Dân Chủ) và ứng cử viên Ronald Reagan (Cộng Hòa), hai ứng cử viên đã có một cuộc tranh luận duy nhất vào ngày 28 tháng 10. Trong cuộc tranh luận, Reagan đã nêu ra một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong mọi thời đại: “Hôm nay quý vị có khá hơn bốn năm trước hay không?” Câu trả lời của Carter là “KHÔNG." Cùng với một số lý do không kém quan trọng khác, số phiếu của ông đã giảm xuống vào những ngày quan trọng cuối cùng của chiến dịch tranh cử. Reagan đã giành được số phiếu phổ thông lớn và chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai?
Nếu mũ cối là biểu tượng của thực dân Tây phương vào thế kỷ 18 thì, bây giờ, “năng lượng tích cực”, như là diễn ngôn của thực dân Đại Hán với những dấu ấn đậm nét của tân hoàng đế Tập Cận Bình, đã trở nên gắn bó với người Việt, từ diễn ngôn của thể chế cho đến giọng điệu ngôn tình của những đôi lứa bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa hôn nhân.
AI là trí tuệ nhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùng vô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sư phi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ. Để thanh minh trước, người viết không phải là khoa học gia để có thể hiểu được vận hành của AI. Người viết bản thân cũng không phải học giả về kho tàng Kinh Phật để có thể đo lường sự uyên áo của Thầy Tuệ Sỹ.
Israel và Iran đã âm thầm chống nhau trong một thời gian dài. Nhưng nhiều diễn biến sôi động liên tục xảy ra gần đây làm cho xung đột giữa hai nước leo thang và chiến tranh có nguy cơ bùng nổ và lan rộng ra toàn khu vực. Điển hình là vào tháng 4 năm nay, Iran công khai tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ Israel. Đầu tháng 10, Israel đã tấn công bằng bộ binh ở miền nam Lebanon. Trước đó, trong cuộc không kích vào trụ sở dân quân Hezbollah ở Beirut, Israel đã tiêu diệt thủ lĩnh Hezbollah là Hassan Nasrallah và nhiều nhân vật quan trọng khác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.