Hôm nay,  

Chuyện Tình... Báo Hại

18/07/200900:00:00(Xem: 8934)

Chuyện Tình... Báo Hại
Nguyễn Xuân Nghĩa

Khi chính khách kê súng vào mồm... để bắn CIA
Cuối năm 1981, Tổng thống Ronald Reagan ký Sắc lệnh Hành pháp Executive Order số 12333 quy định quyền hạn và trách nhiệm mở rộng của các cơ quan tình báo, trong đó có điều khoản cấm nhân viên tình báo Hoa Kỳ không được thi hành việc ám sát. Sau vụ khủng bố 9-11, lệnh này được Chính quyền George W. Bush tu chỉnh hai lần, nhưng việc cấm ám sát vẫn có hiệu lực.
Ngoại lệ là nếu nhân viên tình báo được lệnh riêng của Tổng thống - presidential finding - để thi hành "nghiệp vụ đặc biệt" - bí mật về quân sự hay chính trị - mà Chính quyền có thể phủ nhận, hoặc coi như không biết. Trong các nghiệp vụ ấy có cả chuyện ám sát đặc công khủng bố của al-Qaeda.
Ngày 23 tháng Sáu vừa qua, Giám đốc Trung ương Tình báo CIA là Leon Pantetta mới biết về một chương trình biệt lập nhằm ám sát đặc công al-Qeda, được lập ra sau vụ khủng bố 9-11. Khi thấy chương trình bí mật ấy không được thông báo cho Quốc hội, ông lập tức ra lệnh hủy bỏ và hôm sau triệu tập buổi họp khẩn cấp để báo cho các ủy ban Quốc hội có nhiệm vụ giám sát hệ thống tình báo. Sau đấy, một số chi tiết về chương trình được tiết lộ cho báo chí nổ lớn thành đề tài chính trị ăn khách.
Đảng Dân Chủ khai thác câu chuyện thành đề mục hấp dẫn: "CIA qua mặt Quốc hội!" Báo chí châm thêm chi tiết gay cấn, rằng Phó Tổng thống Dick Cheney là người cấm CIA không được thông báo cho Quốc hội biết về chương trình ấy. Nhân vật hắc ám này quả là lắm tội! Phe Dân Chủ muốn khai thác chuyện tình báo để vẹn tình bảo vệ Dân biểu Nancy Pelosi - Chủ tịch Hạ viện - khi bà bị đả kích là nói dối rằng mình bị CIA che giấu sự thật trong vụ trấn nước tù khủng bố. Bây giờ, CIA bị bắt quả tang là che giấu Quốc hội và vi phạm đạo luật về Tình báo năm 1947, năm thành lập cơ quan này.
Đây là một tiêu biểu - nữa - về sự xuẩn động của các chính khách bất lương khi họ đem trò chơi chính trị vào chuyện an ninh. Nhưng, muốn bắn hạ cơ quan tình báo, họ tự kê súng vào mồm....
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu chuyện ấy, từ nhiều khía cạnh khác nhau. 
***
Việc ám sát đặc công khủng bố al-Qaeda không thể làm chúng ta ngạc nhiên.
Hơn hai chục năm trước, khi hai toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Đông Phi bị al-Qaeda tấn công, Tổng thống Bill Clinton ra lệnh mở chiến dịch quân sự và các điệp vụ mật nhằm triệt hạ đầu não của tổ chức khủng bố này. Chính quyền của ông còn bị phê phán là thiếu hữu hiệu và chểnh mảng nên mới để xảy ra vụ 9-11 vào năm 2001. Ngay sau đó, Tổng thống Bush đã công khai tuyên bố mục tiêu diệt trừ al-Qaeda rồi cũng bị đả kích là không hoàn tất nhiệm vụ.
Trong hai cuộc tranh cử tổng thống năm 2004 và 2008, Chính quyền Bush bị đối lập phê phán là thiếu tập trung vào việc diệt trừ al-Qaeda hoặc ám sát Osama bin Laden mà cứ đi lo chuyện khác. Năm ngoái, ứng cử viên Barack Obama là một tiếng nói đả kích mạnh nhất.
Thật ra, ngay từ năm 2002, cơ quan CIA đã tung ra nhiều đợt không tập căn cứ hay nhân sự đầu não của al-Qeda tại Afghanistan và Pakistan bằng loại máy bay tự động (không người lái UAVs) như Predator hay Reaper, hoặc bằng máy bay AC-130 cải tiến thành một pháo đài bay. Riêng từ hai năm qua, các nghiệp vụ ấy còn gia tăng, rồi tiếp tục mạnh mẽ hơn sau khi Obama nhậm chức. Ngoài hai địa bàn chính là Pakistan và Afghanistan, tình báo Hoa Kỳ còn tấn công al-Qaeda ở nhiều nơi khác, từ Somalia tới Yemen...
Vì vậy, việc diệt trừ đặc công al-Qaeda là quyết định "lưỡng đảng" do ba chính quyền Hoa Kỳ cùng đồng ý tiến hành, từ thời Clinton qua Bush đến Obama, với sự đồng ý của Quốc hội. Ám sát nhân sự al-Qaeda là một nghĩa vụ.
Nhưng không dễ thi hành.
***
Trước hết, hãy nói về định nghĩa. Al-Qaeda như ta hiểu ngày nay là mạng lưới khủng bố Hồi giáo do Osama bin Laden và Ayman al-Zawahiri đề xướng và hoạt động tại nhiều nơi trước khi rút về hậu cứ tại Afghanistan, nhờ sự bảo vệ của lực lượng Taliban. Đây là mạng lưới có trình độ tổ chức và nghiệp vụ cao, đã từng tấn công Hoa Kỳ ở nhiều nơi trước khi đạt thành tích làm nước Mỹ kinh hoàng là vụ 9-11 rồi vụ tấn công Bali tại Nam Dương, vụ Madrid tại Tây Ban Nha và xâm nhập vào Iraq trong khu vực sinh hoạt của cộng đồng Sunni.
Sau đấy, nhiều nhóm Hồi giáo cực đoan nơi khác cũng noi gương và xưng danh al-Qaeda để tiến hành nhiều đợt khủng bố khác, với mức tàn phá thấp hơn vì kém trình độ nghiệp vụ. Thí dụ là al-Qaeda tại Bắc Phi hay Đông Phi hay các tổ đặc công xưng danh "Thánh Chiến" khác, thí dụ như nhóm Jemaah Islamiyah (JI), thủ phạm của vụ đánh bom Bali lần thứ nhì vào năm 2005 và vừa lại tấn công hai khách sạn quốc tế (Mỹ) giữa thủ đô Jakarta của Nam Dương hôm 17 vừa rồi. Các nhóm đó có thể gián tiếp liên lạc với al-Qaeda nhưng chưa chắc đã được tổ chức này trực tiếp yểm trợ hay huấn luyện. Điều ấy không có nghĩa là họ không muốn liên lạc và không thể trở thành chuyện đáng lo.
Vì vậy, lý thuyết có thể phân biệt "al-Qaeda chính gốc" với "al-Qaeda địa phương" hoặc "al-Qaeda nội hóa", "al-Qaeda tự phát"... Các nhà làm luật ngồi trong phòng lạnh an toàn tại Mỹ thì mới muốn phân biệt chuyện đó để minh định đối tượng được diệt theo lệnh Tổng thống. Chứ trong lãnh vực an ninh thì đối tượng nào cũng đều đáng theo dõi, ngăn cản và diệt trừ, nếu được.


Al-Qaeda chính gốc thì bị bao vây và truy lùng tại Afghanistan và Pakistan, nhưng chân rết của họ có thể đang trưởng thành và được huấn luyện ở nơi khác để chuẩn bị giết người và thực tế đã giết người. Làm sao vào đến những "nơi khác" đó"
Một thí dụ đáng suy nghĩ đã xảy ra năm 1996.
***
Năm đó, Chính quyền Clinton có yêu cầu chính phủ của Qatar giúp đỡ để bắt giữ Khalid Sheikh Mohammed, nghi can khủng bố của al-Qaeda đang sống ung dung tại thủ đô Doha, trong vai trò một kỹ sư cho chính quyền Qatar. Được nhân viên trong chính quyền Doha rỉ tai cho biết yêu cầu của Mỹ, Mohammed bèn lỉnh qua Pakistan. Sau này, phúc trình của Ủy ban Điều tra của Quốc hội Mỹ về vụ 9-11 mới cho biết rằng tay đặc công ấy là đồng đạo và đồng chí với Sheikh Abdullah bin Khalid al-Thani, khi đó đang là Bộ trưởng Tôn giáo vụ của xứ Qatar.
Thoát về Pakistan, Sheikh Mohammed là công trình sư của nhiều đợt khủng bố ác liệt trước khi tổ chức vụ 9-11 tại Mỹ năm 2001 rồi vụ tấn công Bali năm 2002 tại Nam Dương. Nếu đợi khi Mohammed về tới Pakistan với chứng cớ rõ ràng là đặc công của al-Qaeda rồi mới ra tay hạ thủ thì quá trễ - mà quả là trễ.
Nhưng làm sao ra tay ám sát một đặc công al-Qaeda khi đương sự đang sống trong một quốc gia "vô can", lại có quan hệ ngoại giao với Mỹ" Dù có mắt thần và tình báo nhân sự tại chỗ, Predator cũng không thể bắn hạ khủng bố al-Qaeda tại Doha - hay Luân Đôn, Bali, Jakarta... Dấu vết đạn dược - hay hỏa tiễn Hellfire - là cái gì đó không dễ xoá tại các thành phố của đồng minh, bên trong lại có cơ sở của khủng bố.
Vì thế, nếu chỉ dùng hỏa tiễn bắn từ phi cơ xuống thì không đủ. Hoa Kỳ cần gửi người vào tận nơi, trong đất bạn và thù - thường thì là đất bạn - để thanh toán mục tiêu cho gọn mà không để lại dấu vết. Đồng minh nào mà cho tình báo Mỹ xâm nhập để giết người như vậy" Và nếu CIA để lại dấu vết thì sẽ gây vấn đề ngoại giao: xâm nhập một quốc gia khác để giết người thì... Tòa án Quốc tế về Tội ác Chiến tranh sẽ thụ lý hồ sơ, với sự cổ võ của các tổ chức cực tả của Mỹ.
Và cả thế giới sẽ hùa theo báo chí... Mỹ đả kích Hoa Kỳ là côn đồ, ngang ngược.
Tình báo Mỹ cẩn giải pháp tinh vi hơn để xác định và tiêu diệt đối tượng.
***
Cơ quan CIA phải huấn luyện nhân viên đi vào vùng đất xám - có thể là một xứ đồng minh mà có vẫn có mạng lưới bao che cho quân khủng bố - và tìm ra đặc công khủng bố để thanh toán rồi rút lui êm thấm. Xin phép nước bạn vào đó là điều khó, mà lại dễ bị lộ ngay từ khi manh nha. Phải bí mật xâm nhập mà không để bị bắt, bị truy tố và gây ra vấn đề. Nếu lại bị chính quân khủng bố bắt được thì coi như xong: bị tra tấn rồi tố cáo om xòm, xong mới bị chặt đầu. Vợ con chít khăn tang trong nín lặng vì Chính quyền Mỹ không bao giờ công nhận là có nhúng tay vào chuyện ám sát. May lắm, trong trụ sở CIA tại Langley mới có một ngôi sao và một cái tên...
Chương trình này vì vậy phải coi chuyện bảo mật là ưu tiên, bảo mật ngay từ bên trong CIA ra tới bên ngoài. Người được huấn luyện xong thì coi như sẽ thành Kinh Kha kamikaze- mà không được uống rượu làm thơ trước khi lên đường. Những đòi hỏi ấy có thể là lý do khiến chương trình không thành hình, có lẽ chưa qua được giai đoạn huấn luyện để trở thành một trong các hoạt động của CIA. Nhưng việc bảo mật ấy có công hiệu: sau hơn bảy năm rưỡi chuẩn bị, chương trình vẫn nằm trong bóng tối.
Bây giờ vì sao lại bị phanh phui"
Là nhờ Quốc hội Mỹ.
***
Thông thường, các cơ quan hữu trách Hoa Kỳ về tình báo đều tường trình lên tám nhân vật chủ chốt trong Quốc hội.
Đó là bốn người lãnh đạo hai đảng Dân Chủ và Cộng Hoà tại hai viện trên dưới, với bốn người cầm đầu hai đảng trong Ủy ban Tình báo Thượng và Hạ viện. Khi chỉ có tám người đó được biết chuyện tuyệt mật, rủi ro bị tiết lộ tất nhiên bị thu hẹp, nhờ vậy mà nhiều chuyện chưa bị tiết lộ.
Nhưng khi cơ quan CIA phải báo cáo với toàn thể Dân biểu Nghị sĩ có trách nhiệm về tình báo - bốn chục người, chưa kể ban tham mưu của họ - thì chuyện lộ mật trở thành quy luật phổ biến.
Nhờ tiết lộ đó, quân khủng bố biết thêm về phương pháp truy lùng của Mỹ mà thoát hiểm và tiếp tục giết người. Vì tiết lộ đó, công sức tình báo thành công cốc - tốn kém cho ngân sách - và nhân viên tình báo có khi mắc nạn, không bị khủng bố chặt đầu thì bị mời ra điều trần trước Quốc hội, có khi bị truy tố vì phạm luật! Thật ra, Quốc hội Mỹ đã nhiều lần là trung tâm tiết lộ bí mật quốc gia chỉ vì một đám chính khách bất lương và truyền thông đốn mạt.
Vụ CIA "giấu diếm Quốc hội" đang gây om xòm dư luận là một điển hình:
Giám đốc CIA vừa thông báo cho hai Uỷ ban về Tình báo của Lưỡng viện hôm 24 tháng Sáu là báo chí Mỹ lập tức biết ngay về một dự án được giữ kín trong hơn bảy năm rưỡi! Và cho nổ lớn để vài Dân biểu có lý cớ điều tra về tội ác CIA. Chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Silvestre Reyes (Dân Chủ Texas) mau mắn nghĩ tới việc đó. Nhiều Dân biểu Dân Chủ còn thông báo là họ sẽ đổi luật để từ nay các cơ quan về tình báo phải báo cáo cho nhiều người hơn trong Quốc hội.
Thế thì... giã từ mẫu thân - nôm na là bỏ mẹ! Đá khéo nên... không khá.
Kết luận"
Một góc Quốc hội Mỹ đang tự biến ra trại gia súc của truyền thông thiên tả. Nhiều chính khách Mỹ tự biến ra điềm chỉ viên cho báo chí vô trách nhiệm. Al-Qaeda lại được yên tâm vì các chính khách Mỹ đang tự kê súng vào mồm. Trong khi nhân viên tình báo CIA ngao ngán đi tìm việc khác an toàn hơn - về chính trị.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.