Hôm nay,  

Bất Bạo Động Và Lòng Từ Bi-3

01/08/200900:00:00(Xem: 5287)
BẤT BẠO ĐỘNG VÀ LÒNG TỪ BI-3
Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: HT.Thích Trí Chơn
Trích từ cuốn sách: "On Non-Violence and Compassion."
(tiếp theo)
LÒNG TỪ BI PHÁT SINH NHỜ KHỐNG CHẾ ĐƯỢC CÁC HÀNH ĐỘNG VÔ MINH CỦA CON NGƯỜI
Chúng ta nên biết sự khác biệt quan trọng giữa các hành động có chủ tâm và những việc làm chỉ nói suông nơi miệng. Khi tâm con người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các ý tưởng đạo đức thì không một hành động xấu ác nào họ có thể làm. Nếu con người được thúc đẩy bởi tình thương thì dù việc làm của họ có tiêu cực vẫn mang lại kết quả xây dựng. Ví dụ nói láo là điều không tốt nhưng khi bạn làm vậy vì lòng từ bi muốn giúp đỡ kẻ khác thì sự dối trá có thể trở thành một điều cần thiết.
Tư tưởng vị tha của tâm tỉnh thức bắt nguồn từ sự thực hành tình thương và lòng từ bi. Trong một vài trường hợp bạn có thể có những hành động tiêu cực nơi thân và lời nói. Các việc làm sai quấy đó sẽ dẫn đến kết quả không mấy gì tốt đẹp. Nhưng tùy thuộc nơi tâm ý của quý vị mà các hành động này đôi lúc trở thành trung tính không lợi, không hại hay có khi nó lại trở nên hoàn toàn hữu ích. Do đó mà điều Phật giáo cho rằng quan trọng là ở tâm ý con người còn các hành động nơi thân hay lời nói xuất phát từ miệng là thứ yếu. Cho nên, đức tính hay sự trong sạch của bất cứ hành động tâm linh nào xấu hoặc tốt đều chịu ảnh hưởng quyết định bởi tư tưởng và ý nghĩ của cá nhân.
Bởi vậy, các bạn cần diệt trừ những ý tưởng tiêu cực như sự hận thù, tham đắm và vô minh. Quý vị nên loại bỏ khỏi tâm bạn các ý nghĩ bất thiện này. Những hành động nơi thân, khẩu và ý của quý vị cần thực hiện đúng theo lời Phật dạy. Sinh hoạt hằng ngày của chúng ta nên áp dụng cho thích hợp với tinh thần Phật giáo, nếu không thì đời sống của bạn sẽ trở nên lầm lạc và vô nghĩa. Cho nên quý vị cần phải sống hòa hợp với những điều chúng ta đã nói và làm. Nhằm diệt trừ hành động vô minh, tánh ích kỷ, và ngã mạn con người cần phát triển tình thương, lòng vị tha, tâm từ bi và trí tuệ hiểu biết vạn pháp đều là không thực.
Ý THỨC VI TẾ KHÔNG CÓ SỰ KHỞI ĐẦU VÀ KẾT THÚC
Tôi tin rằng vào lúc lâm chung không ai có thể giúp đỡ ngoại trừ sự tu tập của chính mình. Khi từ giã cõi đời, bạn sẽ phải ra đi một mình và bỏ lại trần gian mọi thứ. Không bà con hay bạn bè nào có thể cứu giúp cho chúng ta. Dù bạn có nhiều tiền, nhưng sự giàu sang vẫn không thể giúp đỡ mà đôi khi còn làm khổ quý vị. Người bạn thân nhất cũng không đi theo mình. Ngay cả vị thầy tâm linh vẫn không thể tự giúp chính họ hay các bạn vào lúc ấy. Mọi người đều phải ra đi một mình, do sự hướng dẫn của nghiệp lực (karma).
Vậy trong giờ phút đó, ai sẽ giúp cho bạn" Chỉ có quả báo của các hành động lành như tình thương, lòng vị tha và tâm từ bi hiện còn lưu lại nơi tâm thức của chúng ta. Cả hai thiện và ác nghiệp được cất giữ nơi thức A Lại Da. Đây là ý thức nguyên thỉ căn bản hay "Ánh sáng trong suốt" (Clear Light), không có sự khởi đầu hay kết thúc (vô thỉ, vô chung).
Nghiệp thức này đến từ cuộc sống kiếp trước và tiếp nối đến đời sau của các bạn. Đó là quả báo hạnh phúc hay khổ đau mà con người phải gặt lấy do hành động xấu hoặc tốt của mình đã gây ra.
Trong giờ phút lâm chung sắp mất, chỉ có nghiệp lành sẽ giúp cho chúng ta. Do đó, lúc còn sống, nhất là khi đang còn trẻ, với tâm ý trong sạch và bạn có khả năng tu tập, để tự mình chuẩn bị cho cái chết là rất quan trọng. Nhờ vậy mà quý vị có thể đối đầu  thích đáng khi nó xảy đến.
Tiến trình của sự hấp hối xảy ra vào lúc các tế bào trong cơ thể của bạn đang dần dần bị hủy diệt. Nếu tâm của quý vị biết chuẩn bị làm quen với quá trình này, vào lúc cái chết đến chúng ta dễ dàng bình thản đối diện với nó. Tương tự, nếu bạn thường xuyên thiền định quán chiếu đến tình thương và lòng từ bi cùng chia xẻ hạnh phúc của mình nhằm cứu khổ cho những kẻ khác, thì chính do các hành động lành này sẽ giúp quý vị. Nếu là người hằng ngày thực hành chân chính Phật Pháp, bạn sẽ an nhiên tự tại trực diện với cái chết.
KHÔNG CÓ NGƯỜI CHO VÀ KẺ NHẬN
Đức Phật dạy rằng chư Bồ Tát dùng gươm Trí Tuệ diệt trừ Vô Minh và tâm Đại Bi để cứu độ hết thảy chúng sinh. Cả hai đức tính này chúng ta cần luôn luôn kết hợp, chứ không nên riêng rẻ hành động.
Bố thí là sự phát tâm sẵn sàng ban cho người khác không tính toán so đo mọi thứ như tài sản, và thân thể của mình v.v.. Sự bố thí này nhằm mang lại phúc lợi cho kẻ khác.
Cái thân tứ đại giả tạm của con người là nguồn gốc tạo nên các điều xấu xa và tội lỗi, tuy nhiên cũng nhờ nó mà bạn có thể làm những việc lành để giúp đỡ tha nhân. Mọi phước đức mà quý vị đã tạo ra được để cứu giúp, mang phúc lợi đến cho nhiều người khác, công đức thực vô lượng.
Quý vị không nên chiếm hữu hay tích trử ngày càng nhiều vật chất và của cải vì các thứ này sẽ gây trở ngại cho sự thực hành hạnh bố thí cũng như đạt thành quả giác ngộ của chúng ta. Người nào nhận thức rõ cuộc đời là vô thường và phát tâm bố thí tất cả của cải vật chất để cứu giúp những người nghèo khổ được gọi là Bồ Tát (Bodhisattva). Mục tiêu của hạnh bố thí là nhắm đến sự giác ngộ ; và trong ý nghĩa rốt ráo, muốn được nhiều lợi lạc thì hành giả nên quán tưởng không có kẻ cho lẫn người nhận.
TRÍ TUỆ GIÚP PHÂN BIỆT CÓ NHIỀU HẠNG NGƯỜI
Khi khảo sát thế giới tinh thần, chúng ta nhận thấy có nhiều yếu tố tạo nên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Đó là lòng tự tin, tánh ngã mạn và kiêu căng. Tự tin là một đức tính tốt còn kiêu căng và ngã mạn là những tánh xấu.

Tôi thường phân biệt có nhiều hạng người. Một loại người ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, không quan tâm, và thường xâm phạm, tước đoạt quyền lợi của những kẻ khác. Đây là hạng người xấu. Có kẻ lại nói: "Tôi mong trở thành một con người tốt. Tôi cần phục vụ, có trách nhiệm và giúp đỡ các bạn bè." Trừ phi có quyết tâm mạnh mẽ, quý vị rất khó chiến đấu, chống trả lại được các ý tưởng xấu xa. Nhờ trí tuệ hay sự sáng suốt đã giúp bạn phân chia được có những hạng người khác nhau.
Một ví dụ nữa là tình thương và lòng từ bi trong nghĩa này, còn ý kia là sự quyến luyến. Mặc dù cả hai đều bày tỏ sự thân tình, nhưng lòng tham đắm dẫn đến kết quả xấu, còn tình thương và lòng từ bi mang lại hậu quả tốt.
Dục vọng là động lực chủ yếu để thành đạt hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. Phật giáo ghi nhận có hai loại: Sự mong muốn và nguyện ước. Một là lòng ưa thích cứu giúp chúng sinh và thứ hai là điều mong cầu muốn được hoàn toàn giác ngộ. Nếu không có những khát vọng này thì không thể thành tựu được sự giác ngộ. Tuy nhiên cũng có sự ham muốn dẫn đến kết quả của những việc làm bất thiện. Để chống lại dục vọng tiêu cực này là sự bằng lòng hay mãn nguyện. Khi lòng ham muốn thúc đẩy bạn làm việc sai quấy thì quý vị nên dùng trí tuệ để kiểm soát và ngăn chặn nó.
SỰ KHỔ ĐAU TỰ NGUYỆN TẠO NÊN SỨC MẠNH TINH THẦN
Sự hạnh phúc và đau khổ của con người, chủ yếu gồm có hai loại: thể xác hoặc tinh thần. Khi nỗi đau đớn do cơ thể bệnh hoạn gây nên, nhờ tinh thần, ý chí mạnh mẽ bạn có thể khống chế vượt qua. Nếu giữ được tâm an tịnh, quý vị sẽ cảm thấy bớt khổ đau thân xác. Trái lại, khi tinh thần đau khổ, thể xác không thể giúp bạn an vui được. Nếu quý vị mong chấm dứt sự khổ đau bằng các thú vui xác thịt, nhưng điều đó không bao giờ mang lại kết quả lâu dài, mà còn khiến cho nỗi khổ đau của bạn càng tăng thêm. Cho nên điều quan trọng là quý vị cần chăm sóc sự tu tập ở nội tâm hơn là chỉ nghĩ đến việc lo kiếm tiền để làm giàu.
Dĩ nhiên, Phật giáo ngoài chủ trương tìm phương pháp làm giảm bớt nỗi khổ đau của chính cá nhân bạn, nó còn giúp cứu khổ cho nhiều người khác. Nhưng nếu quý vị không thể chịu đựng nỗi sự khổ của riêng mình, thì làm sao chúng ta có thể giúp đỡ cho các bạn bè thân nhân"
Có sự sai khác giữa nỗi khổ của tha nhân mà bạn chia xẻ, nhận làm của mình và sự khổ trực tiếp phát xuất từ chính nơi quý vị. Trong cái trước khiến bạn lo nghĩ khi cưu mang điều bất hạnh của người khác, nhưng cảm thấy vui vì mình tự nguyện nhận chịu sự khổ ấy. Nhờ tham gia vào việc cứu khổ cho kẻ khác mà tâm từ bi của bạn được phát triển. Trái lại ở trường hợp sau, mặc dù không muốn mà vẫn gặp cảnh khổ, cho nên quý  vị bất đắc dĩ đành phải chấp nhận, nhưng không mấy gì tích cực. Tuy nhiên, đức Phật đã dạy: "Bạn hãy quên hạnh phúc của riêng mình mà cố gắng giúp đỡ cho người khác".
 Nền tảng để bạn xây dựng tinh thần hy sinh và nghĩ đến phúc lợi tha nhân là lòng yêu thương chính mình. Tất cả chúng ta ai cũng muốn có hạnh phúc và không thích khổ đau. Nhưng điều quan trọng là bạn đừng bao giờ quá đề cao, chỉ biết bản ngã của quý vị.
SỰ HIỂU BIẾT NHAU GIỮA CÁC TÔN GIÁO SẼ MANG LẠI TINH THẦN HÒA HỢP VÀ THƯƠNG YÊU
Tôi đã từng thuyết giảng rằng các tôn giáo lớn trên thế giới đều có chung một lý tưởng của tình thương, một mục đích cứu giúp cho nhân loại và hướng dẫn các tín đồ trở thành những con người tốt hơn. Tín ngưỡng nào cũng dạy những lời răn đạo đức nhằm giúp con người giữ gìn thân, lời nói và ý nghĩ luôn luôn trong sạch. Tất cả đều khuyên chúng ta không nên nói láo, trộm cắp hay sát sinh v.v...
Mục đích chung của những tôn giáo là xây dựng trên lòng vị tha, không ích kỷ, diệt trừ vô minh và hướng đến các điều thiện. Trên căn bản này, tôi tin rằng mọi tín ngưỡng đều thuyết giảng chung một bức thông điệp của tình thương. Sự khác biệt về giáo lý có thể do vì các nền văn hóa không đồng nhất của mỗi quốc gia. Thực là vô cùng lợi ích nếu chúng ta biết áp dụng trong cuộc sống hằng ngày những lời khuyên răn đạo đức hơn là tranh cải về các điều khác biệt nhỏ nhặt vô bổ trong mọi tôn giáo.
Mỗi tín ngưỡng hoạt động theo phương cách riêng của mình, nhằm giúp nhân loại bớt khổ đau và đóng góp cho nền văn minh, tiến bộ của thế giới. Không cần thiết phải cải đổi tôn giáo. Tốt hơn, tôi cố gắng suy nghĩ làm cách nào để có thể đóng góp, giúp con người sống có hạnh phúc.
Tôi không ủng hộ bất cứ một tín ngưỡng đặc biệt nào với ý đồ gây tổn hại cho các tôn giáo khác. Tôi cũng không chủ trương đi tìm một tôn giáo mới. Mọi tôn giáo khác biệt đều có trách nhiệm giúp làm thăng hoa, và cải thiện đời sống con người. Nhân loại, với nhiều khuynh hướng, trình độ và ý tưởng sai biệt nên cần phải có những tôn giáo khác nhau để giúp con người sống trong hòa bình và hạnh phúc.
Tôi hoan nghinh mọi nỗ lực khắp nơi trên thế giới nhằm mang lại sự hòa hợp, thông cảm và hiểu biết nhau hơn giữa các tôn giáo. Điều này đặc biệt rất khẩn cấp cần thiết trong hiện tại. Sự hiểu biết giữa các tín ngưỡng sẽ tạo nên sự đoàn kết giúp các tôn giáo có thể hợp tác làm việc chung với nhau.
Điều ấy có thể thành đạt khi mọi tôn giáo đều biết kính trọng lẫn nhau và chú tâm vào mục đích chung là giúp đỡ, mang lại hạnh phúc cho con người. Chúng ta cũng cần có sự đồng tâm nhất trí trong nỗ lực truyền bá các giá trị đạo đức tâm linh căn bản của tất cả tôn giáo đến với mọi người nhằm nâng cao đời sống an lạc cho nhân loại.
Trong tương lai, dù cho quý vị sẽ có thể thành đạt được nền hòa bình thế giới hay không, chúng ta vẫn không có chọn lựa nào khác là cần phải cùng nhau tích cực hoạt động hướng đến mục tiêu đó.
(còn tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.