Hôm nay,  

Mỹ-hoa Dàn Trận - Bài Hai

25/03/201000:00:00(Xem: 10388)

Mỹ-Hoa Dàn Trận - Bài Hai

Nguyễn Xuân Nghĩa

...Yếu tố kinh tế trong trận đấu...
Mở đầu cho loạt bài về những mâu thuẫn thậm chí xung đột sắp tới giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, chúng ta cần nhìn lại quan hệ của hai nước trên đại thế.
Người ta thường cho là Hoa Kỳ chi tiêu bừa phứa, lại còn mắc nợ nặng nề sau vụ khủng hoảng tài chánh năm 2008 và nạn suy trầm kinh tế năm 2008-2009. Trong khi đó, Trung Quốc tiết kiệm tối đa và làm chủ một lượng dự trữ ngoại tệ tương đương với 2.400 tỷ Mỹ kim mà đa số được lưu giữ dưới dạng đầu tư vào thị trường Mỹ. Vì vậy, Hoa Kỳ thành quốc gia khách nợ và Trung Quốc là quốc gia chủ nợ, cho nên hai nước đều cần nhau, với thế thượng phong thuộc về chủ nợ.
Nhận xét ấy thật ra phiến diện và không phản ảnh đúng sự thể, nhưng cứ được nhiều "học giả" Mỹ lưu truyền, với sự hoan hỉ của Bắc Kinh và sự sốt sắng phiên dịch của truyền thông Việt ngữ.
Trước hết, như tại nhiều quốc gia khác trên địa cầu từ khi có tự do giao dịch kinh tế, Hoa Kỳ có gặp chu kỳ suy trầm từ cuối năm 2007 và bị khủng hoảng tài chánh năm 2008 sau vụ bể bóng đầu tư trên thị trường gia cư từ năm 2006. Vụ khủng hoảng ấy lan rộng khiến nước Mỹ bị coi là thủ phạm của mọi tai họa kinh tế ở nơi khác. Điều ấy không chính xác nếu ta thấy là Âu Châu chưa ra khỏi suy trầm và đang mấp mé khủng hoảng tài chánh vì những chứng tật riêng. Lại càng không chính xác khi ta nhìn qua đầu máy kinh tế thứ nhì là Nhật Bản, bị suy trầm và khủng hoảng từ hai chục năm trước sau vu bể bóng gia cư địa ốc và cổ phiếu năm 1990.
Chẳng những điều ấy không chính xác mà lại không đầy đủ: Trung Quốc có góp phần cho vụ khủng hoảng năm 2008 tại Mỹ, là điều thiên hạ ít biết vì không quan tâm đến kinh tế quốc tế.
Nhắc lại thì Hoa Kỳ có trách nhiệm trong sự bất cẩn vì tinh thần hồ hởi sảng truyền thống của nước Mỹ, nên nhập cảng ào ạt và vay mượn lung tung. Bên kia Thái bình dương, Trung Quốc là nơi mà dân chúng có tâm lý bất an cũng truyền thống nên thắt lưng buộc bụng và tiết kiệm rất cao. Họ còn bị nhà nước thắt lưng buộc bụng để xuất cảng bằng mọi giá cho nhà nước thu về ngoại tệ, lập ra một kho tài sản tung hoành trên thế giới.
Đáng lẽ, kho tài sản ấy đã có thể được đầu tư vào bên trong để nâng cao mức sống toàn dân. Hoặc nhà nước Bắc Kinh đã có thể nâng cao hối suất đồng bạc của mình (đồng Nguyên, hay Nhân dân tệ) để nâng lợi tức người dân. Nhưng lãnh đạo Bắc Kinh không tính như thế. Họ giữ hối suất thấp - nôm na là giàng giá đồng Nhân dân tệ vào đồng Mỹ kim theo tỷ giá cố định và giả tạo - để chiếm ưu thế nhờ xuất cảng với giá rẻ. Rồi có ngoại tệ trong tay, họ đầu tư ngược vào Mỹ để kiếm lời trên một thị trường an toàn hơn là... thị trường Hoa Lục.
Kết quả, đúng hơn, phải nói là hậu quả, là Trung Quốc tạo ra một nguồn tiền lưu hoạt cực lớn, tới cả ngàn tỷ Mỹ kim, được chảy vào thị trường Mỹ.
Nguồn tiền ấy có góp phần làm giảm lãi suất tại Mỹ và thổi lên bong bóng đầu tư. Lãi suất càng hạ, dân Mỹ càng phóng tay chi tiêu nên càng bị nhập siêu về ngoại thương và càng đưa ngoại tệ vào tay Bắc Kinh để lại thổi qua Mỹ. Nói ví von thì dân Mỹ lạc quan như trẻ thơ thích chơi ma túy, Bắc Kinh là người cung cấp!
Sau khi bị Mỹ phàn nàn về việc định giá đồng bạc quá thấp, Bắc Kinh sợ bị trả đũa nên từ tháng Bảy năm 2005 đến tháng Bảy năm 2008, đã tiệm tiến nâng tỷ giá đồng Nguyên khoảng 20% - ghi cho dễ nhớ, thực tế là gần 21%. Thế rồi khi thấy kinh tế thế giới bị suy trầm, từ tháng Bảy năm 2008, Bắc Kinh lại ấn định đồng bạc theo hối suất thấp, rồi tung kế hoạch kích thích kinh tế và khuyến khích xuất cảng bằng trợ giá.
Để tiếp thục thu thêm ngoại tệ về làm dự trữ.
Nói vắn tắt, Bắc Kinh có góp phần gây ra khủng hoảng tài chánh toàn cầu vì tiếp tục bơm tiền.  Và nay còn đình chỉ khả năng điều chỉnh của thế giới - của Mỹ và các nước công nghiệp khác.
Chuyện điều chỉnh ấy là như thế nào"
Là Trung Quốc không nên tiếp tục cạnh tranh nhờ tiền rẻ để xuất cảng ra ngoài mà phải nâng cao khả năng tiêu thụ nội địa - nâng cao lượng nhập cảng - bằng cách tăng hối suất đồng bạc. Tức là phải cho người dân được hưởng công lao sản xuất của mình và nhập cảng nhiều hơn từ các xứ khác hầu quân bình lại cán cân ngoại thương của thế giới. Việc điều chỉnh ấy là cần thiết cho thế giới và cho chính Trung Quốc. Nhưng dù lãnh đạo Bắc Kinh có muốn như vậy từ lâu, họ vẫn không làm được vì những chứng tật ngay trong cơ chế kinh tế chính trị của Trung Quốc.
Trong khi ấy, Bắc Kinh thực tế dựa vào khối ngoại tệ dự trữ làm đảm bảo cho hệ thống tiền tệ và ngân hàng của Trung Quốc! Nếu không, xứ này sẽ bị khủng hoảng. Khi nhìn lại toàn cảnh như vậy, ta thấy Bắc Kinh cũng cần Hoa Kỳ và mong là dân Mỹ sớm ra khỏi suy trầm để tiếp tục cấp cứu kinh tế Hoa Lục bằng cách lại tiêu xài như Mỹ và nhập cảng tưng bừng!


Vì không hiểu điều ấy, hoặc vì gian ý - từ các cơ sở đầu tư có quan hệ với thị trường Hoa Lục và các học giả hay chính khách Mỹ được Trung Quốc viện trợ, hà hơi tiếp sức - người ta mới lưu truyền lý luận rằng Hoa Kỳ là khách nợ nên không thể cưỡng chống Trung Quốc hoặc lớn tiếng đả kích Bắc Kinh về chuyện hối suất đồng Nguyên. Nhiều người còn uyên bác cảnh báo là nếu Mỹ tiếp tục tăng chi vô trách nhiệm hoặc tiêu xài phóng túng thì đồng Mỹ kim sẽ mất ưu thế của một ngoại tệ dự trữ. Bắc Kinh cũng nương theo đó mà từ năm 2008 bắn tiếng dọa nạt là họ sẽ đánh gục đồng đô la hoặc sẽ đưa đồng Nguyên lên hàng "ngoại tệ dự trữ".
Một nét khôi hài phản ảnh sự mù lòa kinh tế hoặc gian manh chính trị. Lý do là muốn thành một ngoại tệ dự trữ có khả năng lưu hành toàn cầu thì đồng Nhân dân tệ phải được thả nổi đã! Là chuyện Bắc Kinh chưa thể làm được!
Trên đây là vài điểm khái quát về tình hình đôi bên, về "tương quan lực lượng" giữa hai cường quốc. Nó không đơn giản như nhiều người nghĩ. Và sẽ còn trở thành phức tạp hơn khi Tổng thống Barack Obama và Lưỡng viện Quốc hội đều khẳng định nhu cầu gia tăng xuất cảng để tạo thêm việc làm - và còn nêu đích danh thủ phạm là Trung Quốc khi lũng đoạn thị trường bằng đồng Nguyên.
Vì vậy mà hai nước đang dàn trận cho một cuộc đấu trí toàn diện, nhưng đều mong là không đi tới đấu lực.
Trong vụ đấu trí, Trung Quốc có một ưu điểm... tiền kiếp. Đó là lời khuyên trong Binh pháp Tôn tử "Không đánh mà khuất phục được người mới là sáng suốt nhất". Cả một nền văn hóa về mưu lược chính trị đã thấm nhuần triết lý đó. Muốn thế, phải dụng mưu - kể cả làm chuyện dối trá - phải đánh đòn ngoại giao để tranh thủ người này, ly gián người kia, chứ dụng binh rồi đánh thành mới lả dở nhất. Từ đó, và cho đến ngày nay, lãnh đạo Bắc Kinh vẫn có "chiến lược kỳ biến" là gây ra nhận thức giả tạo về ta (Trung Quốc) và về địch (Hoa Kỳ trong trường hợp này) và cả mưu "gây ấn tượng" (tốt về ta và xấu về địch) ngay trong hàng ngũ địch. Đấy là phần vụ của tuyên truyền và nghệ thuật "lobby" rất phổ biến trong xã hội Hoa Kỳ, có khi còn nhắm vào thành phần có trách nhiệm về tình báo, ngoại giao và chính sách ứng phó với Bắc Kinh.
Ngược lại, Hoa Kỳ cũng có ưu điểm của một xã hội trẻ, cởi mở và đa nguyên, nơi mọi chuyện đều đưọc tranh luận công khai, mọi thông tin đều trình bày minh bạch. Và quan trọng nhất là ưu thế tự do kinh tế khiến mọi chuyện trái phải, lợi hại đều thường xuyên được thẩm xét và thay đổi.
Nhưng đấy là chuyện văn hoá chính trị lâu dài.
Chuyện trước mắt là thực lực kinh tế và trí tuệ của hai hình thái xã hội khác nhau. Một thí dụ thời sự là Hoa Kỳ mắc nợ ngập đầu làm các chính trị gia tranh luận thường xuyên nhưng chẳng vì vậy mà chính quyền tan rã. Trong khi ấy, và đây cũng là một tiết mục thời sự, Trung Quốc đang mất dần ưu thế xuất siêu vì thặng dư về xuất nhập cảng bị thu hẹp. Tức là xuất cảng không tăng kịp đà nhập cảng.
Hôm 22 vừa qua, nước Mỹ mải tranh luận chuyện cải tổ chế độ bảo dưỡng y tế nên không chú ý đến lời báo động của Bộ trưởng Thương Mại Bắc Kinh là Trần Đức Minh, rằng số thặng dư mậu dịch giảm 22 tỷ trong hai tháng đầu năm nay. Sau hai năm bơm tiền kích thích kinh tế và khuyến khích xuất cảng, ưu thế ngoại thương của Trung Quốc đang sụt vì nhập cảng tăng hơn 63% mà xuất cảng chỉ thêm có 31,4%. Hoa Kỳ vốn dĩ đã quen với chuyện ấy nên không thấy là lãnh đạo Bắc Kinh đang rất lúng túng vì ảnh hưởng chính trị sẽ lên tới trung ương. Mà do tình hình kinh tế chưa khả quan, số nhập cảng Âu-Mỹ-Nhật chưa tăng, chiều hướng bất lợi này còn tiếp tục và Bắc Kinh không có đất lùi. Mâu thuẫn Mỹ-Hoa vì vậy càng dễ bùng nổ.
Trong khi đó, khi nhìn lại toàn cục thì bong bóng đầu tư tại Mỹ là hiện tượng tự phát, khiến nhiều người có lợi và nhiều nhà đầu tư phá sản khi bóng bể. Tại Trung Quốc, bong bóng đầu tư là kết quả của chánh sách quản lý kinh tế quốc dân và đem lại mối lời lớn cho đảng viên cán bộ hay tay chân thân tộc. Ngày bóng bể thì dân nghèo lại bị thiệt hại hơn cả và tiền tiết kiệm gửi ngân hàng có khi là giấy lộn. Vì vậy, khi Trung Quốc đang ngồi lên một bong bóng đầu tư vĩ đại, lãnh đạo Bắc Kinh không thể không lo sợ.
Kết cuộc là trong trận đấu trí này, Trung Quốc không chiếm thế thượng phong.
Và nếu, theo giả thuyết giả tưởng của kịch bản "do âm mưu của Mỹ", nếu bong bóng Hoa Lục cứ tiếp tục căng phồng như thế này, Trung Quốc sẽ lại gặp tai họa như Nhật Bản hai chục năm trước. Với kết quả chính trị kinh hoàng hơn nhiều. Vì xứ này không có dân chủ!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.