Hôm nay,  

Hệ Thống Giáo Dục Đại Học Vn – Tương Lai Về Đâu?

20/09/200900:00:00(Xem: 9260)

Hệ Thống Giáo Dục Đại Học VN – Tương Lai Về Đâu"

GS Kim Oanh với sinh viên trường đại học UCLA.


Nguyễn-Lâm Kim Oanh – California State University System
Harvard Kennedy School, thuộc hệ thống đai học Harvard có một chương trình nghiên cứu về kinh tế xã hội của các quốc gia vùng Châu Á – Asia Programs – trong đó có chương trình Việt Nam Program. Sự nghiên cứu của họ tập trung vào việc tìm câu giải đáp cho vấn đề kinh tế trì trệ tại một số quốc gia sau khi đã vượt qua giai đoạn “xoá đói giảm nghèo.”  Cơ quan nghiên cứu này vừa phổ biến một tài liệu có tên Vietnamese Higher Education: Crisis and Response - tạm dịch là Hệ Thống Giáo Dục Đại Học tại VN: Sự Khủng Hoảng và Đối Phó.
Bản tường trình sự tìm hiểu về tình trạng giáo dục cấp đaị học ở VN này cũng dựa trên kinh nghiệm mới đây của trường Đại Học Harvard trong việc thành lập và điều hành một Trung Tâm Giáo Dục và Nghiên Cứu chính sách và đường lối phát triển kinh tế do chương trình Fullbright Kinh Tế Học bảo trợ. Trước hết họ nêu ra 3 thành phần nồng cốt (stakeholders) – đó là chính quyền Hà Nội, người dân Việt tại VN và cộng đồng quốc tế. Họ kết luận bằng cách nhấn mạnh sự cần thay đổi của cơ quan chính quyền nếu muốn cải tiến giáo dục cấp đại học.
Một vài dữ kiện đưa ra cho thấy giáo dục cấp đại học VN đang suy thoái trầm trọng - trong năm 2007, tổng số các nghiên cứu khoa học có giá trị được xuất bản trên các tập san chuyên đề quốc tế (peer-review journals) cho thấy VN thua xa:
- Nam Hàn:  5,060
- Trung Hoa:  5,662
- Singapore:  3,598
- Thailand:  1,772
- Malaysia:      504
- Vietnam:       96
(Source: Science Citation Index Expanded, Reuters)
Một dữ kiện khác dùng để so sánh phẩm chất và giá trị đaị học của các quốc gia là số bằng tác quyền cho các phát minh hoặc sáng chế của mỗi quốc gia.  Theo tài liệu của cơ quan World Intellectual Property Organization, số bằng tác quyền phát ra trong năm 2006 tại các quốc gia trong Châu Á như sau:
- Nam Hàn: 102,633
- Trung Hoa:  26,292
- Malaysia:       147
- Thailand:        158
- Vietnam:            0
(Source: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review).
Một điều đáng lưu tâm là sự phát triển kinh tế của một quốc gia dính liền với giá trị và phẩm chất giáo dục đại học trong nước, điển hình qua sự bành trướng kinh tế mạnh mẽ của Nam Hàn, Đài Loan, và gần đây nhất là Trung Hoa.  Cả ba xứ này gần như kiên quyết theo đuổi việc cải tiến và nâng cao hệ thống giáo dục đại học và khoa học trong giai đoạn cải tố xứ sở họ. Ngược lại sự kém thành công kinh tế của Thailand, Phi Luật Tân và Indonesia làm chúng ta phải suy nghĩ đến sự kém phát triển của hệ thống đại học và khoa học tại các xứ này.  Tuy vậy, so với họ thì hệ thống đại học VN còn thua rất xa!
Lý Do của Sự Khủng Hoảng
A. Ngược dòng lịch sử: Theo bản tường trình thì một phần sự khó khăn để phát triển giáo dục đại học hôm nay bắt nguồn từ thời VN còn là thuộc điạ của Pháp. Chính phủ thực dân Pháp chỉ khai triển giáo dục cấp tiểu học và trung học và đầu tư rất ít vào giáo dục cấp đại học so với các quốc gia thuộc các khối bị trị cùng thời trong vùng. Vì vậy, VN mất đi cơ hội cải cách giáo dục khi làn sóng giáo dục phương tây tràn qua châu Á vào đầu thế kỹ 20.  Đấy là giai đoạn khi các quốc gia lân cận bắt đầu hình thành các cơ sở đại học và cơ quan nghiên cứu dựa trên các nền tảng sẵn có. Trong suốt thời gian nội chiến, sự phát triển giáo dục đại học VN tuy có nhưng rất chậm; rồi tiếp theo là những thập niên của xã hội chủ nghĩa đã hoàn toàn đánh mất tinh thần và môi trường cần thiết để xây dựng một cơ sở đại học có giá trị.
B. Yếu Tố Hành Chính: Lý do rõ ràng và cụ thể nhất gây ra sự suy thoái trầm trọng của nền giáo dục đại học VN hiện nay là sự kềm chế của hệ thống hành chính trong nước.  Bất cứ một hệ thống đại học tầm vóc nào cũng cần những yếu tố căn bản để thành công - những yếu tố sau đây hiện tại không có trong hệ thống đại học VN
- Sự Tự Trị: Các cơ quan giáo dục VN từ những thập niên qua vẫn bị sự kềm chế của một guồng máy hành chính từ chính phủ trung ương. Chính phủ trung ương quyết định số sinh viên ghi danh tại mỗi trường và số lương mỗi giáo sư được lãnh. Ngay cả việc thăng cấp cho giáo sư cũng bị kiểm soát.  Lương bổng hoàn toàn dựa trên sự quen biết, quá khứ chính trị và gia thế thay vì những thành tích khoa bảng. Mức lương căn bản thấp đến đỗi các giáo sư phải kiếm sống thêm ngoài giờ dạy. Không như bên Trung Hoa, VN không coi trọng bằng cấp từ các quốc gia khác. Đa số các giáo sư thâm niên được đào tạo từ hệ thống đại học Liên Sô và Đông Âu, không thạo Anh ngữ và có khi có ác cảm với lớp đồng nghiệp trẻ tuổi được đào tạo tại tây phương.
- Tiêu Chuẩn và Liên Hệ Quốc Tế:  Trong môi trường khoa học kỹ thuật tân tiến hiện tại, sự trao đổi và thâu nhận kiến thức giữa các trường đại học toàn cầu xảy ra vô ranh giới.  Tuy nhiên các cơ quan đại học VN vẫn còn tự cô lập. Đa số các sinh viên xuất sắc sau khi hoàn tất chương trình học không muốn bước vào ngành dạy đại học vì sợ kiến thức bị mai một. Ngay cả khi có sự cải tiến từ bên trên, môi trường đại học vẫn bị nhiều vòng kiểm soát khiến những cuộc thảo luận, trao đổi tư tưởng vẫn còn dè dặt và khuôn khổ so với những diễn tiến bên ngoài khuôn viên trường.  Môi trường đại học VN thiếu yếu tố căn bản “academic freedom” mà các đại học khác được hưởng.
Trong một bài viết đăng trên báo Tia Sáng ở VN tháng giêng năm 2007, giáo sư Hoàng Tụy phân tích sự suy thoái của nền giáo dục và khoa học tại VN đã đưa ra những điểm tương tự.  Ông nêu ra những vấn đề mà ông cho là “mấu, chốt” như sau:
o Nghịch lý lương/thu nhập: vì số lương chính thức chỉ là một phần nhỏ của sự thu nhập hằng tháng nên “đương nhiên người giáo dục lao động và khoa học phải dồn phần lớn tâm trí, khả năng để thu nhập ngoài lương, mà phần này thì phân phối tùy tiện, bất công, không có kiểm soát chặt chẽ, cho nên là nguồn gốc nhiều sự tiêu cực mà ai ai cũng biết.”
o Tư duy toàn cầu: Gs Hoàng Tụy hiểu rằng muốn tham gia và tranh đua trong một thế giới toàn cầu hoá, VN phải biết để ý và nghe theo “các luật chơi chung.”  Hệ thống đại học VN chưa biết tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế trong việc đào tạo, tuyển dụng, thăng tiến và duy trì các nhân viên đaị học. Ông nhận định tình trạng hiện tại một cách trung thực: “Tiếc thay, từ việc đào tạo tiến sĩ, việc tuyển chọn giáo sư, tiêu chuẩn đánh giá trình độ một công trình khoa học, một nhà khoa học, một trường đại học, chúng ta đều có tiêu chuẩn riêng chẳng giống ai. Có những công trình khoa học, những luận văn tiến sĩ của ta ngay cả về những ngành học thuật có tính quốc tế như khoa học cơ bản, kinh tế, v.v..., nếu xét theo tiêu chuẩn thông thường ở các nước thì thậm chí chỉ là những mớ giấy lộn.”


- Tinh thần trách nhiệm:  Trong bản nghiên cứu của đại học Harvard, họ nêu rõ thực trạng khan hiếm cơ hội lên đại học - chỉ 1/10 các sinh viên đủ tiêu chuẩn vào đại học được nhận vào. Chính vì thế, các cơ quan đại học VN không cần để ý đến nhu cầu sinh viên hoặc có động lực để cải tiến. Các sinh viên tốt nghiệp ra trường thì hơn 50 % không tìm được việc. Hơn 25% chương trình học nặng về các lý thuyết chính trị không còn ứng dụng được.   Gs Hoàng Tụy nói về tình trạng bằng cấp tại VN như sau: “Đội ngũ GS của ta thì nhiều người hữu danh vô thực, số khá đông dưới xa chuẩn mực quốc tế bình thường nhất. Oái ăm là trong khi đó nhiều người có năng lực xứng đáng, nhất là người trẻ, lại bị loại vì không đạt các tiêu chuẩn vớ vẩn, không giống ai, của ta. Chẳng lạ gì có những ông A bà B trong nước được coi là nhà khoa học nổi tiếng mà trên quốc tế hoàn toàn vô danh. Thời gian gần đây lại xuất hiện ngay trong hàng ngũ các quan chức hàng loạt viện sĩ “hữu nghị”, viện sĩ “chạy”, viện sĩ “mua”, hoàn toàn không xứng với danh hiệu mà nhiều người vẫn tưởng là dành cho những tài năng lỗi lạc.”
Phương Thức Đối Phó Hiện Nay
Chính Sách Cải Cách Đại Học: Khi VN hô hào chính sách “đổi mới” bắt đầu vào năm 1986 thì mức thay đổi tại các cơ quan đại học vẫn “dậm chân tại chổ” đến nỗi một số các nhà khoa học VN tin rằng giá trị giáo dục khoa học bị tụt lùi. Mãi cho đến ba năm gần đây chính quyền VN mới bắt đầu đặt ưu tiên cho sự cải cách giáo dục qua nghị quyết 14 “cải cách toàn diện giáo dục đại học” cho kịp năm 2020.  Tuy nhiên sự thay đổi vẫn còn rất chậm.
Mới đây nhất, chính phủ Hà Nội thông báo một số dự án thành hình các cơ quan đại học hoàn toàn mới với sự hợp tác cuả các đại học quốc tế và đồng ý đóng góp ngân quỹ vay mượn từ các cơ quan như World Bank. Tuy vậy, những vấn đề “then chốt” vẫn chưa được nhắc đến - những chức trách trong hệ thống giáo dục VN vẫn duy trì quan niệm “trung ương tập quyền.”   Lối làm việc này hoàn toàn không thích hợp với hệ thống giáo dục đại học Hoa Kỳ là mỗi đại học có toàn quyền tự trị và chính phủ đóng vai trò rất giới hạn.  Chính quyền VN chưa gì đã đặt ra những chương trình tiên liệu cho các cơ quan đại học mới, ấn định sẵn trường nào được chuyên khoa nào, hoàn toàn chú trọng vào các lãnh vực khoa học, kỹ thuật và gạt ra ngoài những phân khoa khác như nhân văn, khoa học xã hội.
Du Học Sinh:  Số sinh viên VN đi du học ngoại quốc càng ngày càng tăng kể từ năm 1986, đầu tiên qua các chương trình học bổng của Fullbright và World Bank. Sau này một số gia đình khá giả có đủ phương tiện gửi con đi du học và con số du học sinh nhảy vọt.  Hiện nay VN là một trong 20 quốc gia hàng đầu gửi sinh viên du học tại Hoa Kỳ.  Số tiền gia đình VN bỏ ra cho việc trang trải chi phí du học được ước lượng ít nhất một tỉ đô la mỗi năm.  Tuy nhiên, du học không phải là giải đáp cho việc đào tạo sinh viên tại VN vì chỉ có một số rất ít sinh viên thuộc gia đình giàu đủ điều kiện, họăc may mắn được học bổng.  Khoảng cách giữa giới giàu và nghèo tại VN rất lớn, cũng như khoảng cách giữa những gia đình ở thành thị và gia đình ở thôn quê. Ngay cả những sinh viên tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc, đa số không muốn quay về và rất ít người muốn vào môi trường dạy đại học . 
Sự Trao Đổi Quốc Tế:  Mặc dầu từ lâu nay có nhiều cơ quan quốc tế hổ trợ việc trao đổi sinh viên với VN và một số quốc gia cố gắng đầu tư vào hệ thống giáo dục đại học VN, kết quả vẫn rất giới hạn. Lý do giản dị là vì họ không bao giờ đụng vào việc điều hành và quản lý đại học. Nhiều cơ quan và nhà hảo tâm cho học bổng sinh viên nhưng họ không được dự phần vào việc tuyển chọn sinh viên xứng đáng.  Các cơ quan đại học quốc tế được sự khuyến khích của chính quyền VN để lập ra các cơ sở chi nhánh đại học tại VN. Tuy nhiên đa số tập trung vào các ngành nghề đang được đòi hỏi như quản lý, tiếp thị, điện toán... và mục đích chính là làm lời.
 Hiện nay chính quyền VN rất muốn thu hút các cơ quan giáo dục quốc tế hàng đầu, nhất là từ Hoa Kỳ vào VN.  Tuy nhiên họ cần phải hiểu rõ ba điều quan trọng.  Thứ nhất, các cơ quan nghiên cứu và đại học tầm vóc sẽ không vào VN trong vài trò đầu tư.  Thứ hai, các trường đại học tên tuổi sẽ không bao giờ chịu nhân nhượng các giá trị và tiêu chuẩn chuyên môn của họ. Điểm thứ ba là hệ thống giáo dục đại học Hoa Kỳ hoàn toàn tự trị, do đó các vấn đề chính trị chỉ có một ảnh hưởng rất giới hạn.  Bản tường trình của Đaị Học Harvard kết luận rằng chỉ khi nào chính quyền VN thật sự cải cách việc điều hành các cơ quan giáo dục thì cấp đại học VN mới có cơ hội tiến lên.
Tuy nhiên theo sự nhận định của Gs Hoàng Tụy thì tình trạng này khó thay đổi vì đã nhiều lần, những tệ trạng được nêu ra, các đề nghị được trình lên nhưng việc thực hành thật sự chưa bao giờ có. Ông lên tiếng, “Giáo dục, khoa học trì trệ, trong lúc chất xám bị sử dụng hết sức lãng phí. Năm này qua năm khác, hội thảo đi rồi hội thảo lại không biết bao nhiêu lần mà vẫn không có được một chính sách cụ thể khả dĩ đem lại chút niềm tin trong vấn đề này. Bàn đi tính lại mãi chuyện khuyến khích tài năng, cuối cùng chỉ  làm được mỗi việc là ghi tên các thủ khoa đại học vào bảng vàng để ở Văn Miếu!  Từ hơn mười năm về trước đã có biết bao đề nghị hợp lý về cải cách, chấn hưng giáo dục, từ việc đào tạo tiến sĩ, công nhận GS, PGS, đến nhiều việc cụ thể khác về thi cử, phân ban, tuyển sinh, tự chủ đại học,v.v. có thể nói không có vấn đề gì thiếu những đề nghị cải cách cụ thể, nhưng mãi đền gần đây một số những đề nghị ấy mới bắt đầu được nghiên cứu”
Trong tình trạng này, chúng ta không mong gì một sự cải tiến cho nền đại học tại VN thực sự mặc dầu trong lần họp mặt với cộng đồng VN hải ngoại tại Quận Cam vào tháng 5 vừa qua, đại sứ Hoa Kỳ tại VN, ông Michael Michalak đã nhấn mạnh việc cải cách giáo dục VN là ưu tiên hàng đầu trong sự bang giao Hoa Kỳ - Việt Nam hiện nay!
Cách đây không lâu hãng Intel về VN mở một cơ sở rất lớn với hy vọng sản xuất một số các nhu liệu mới tại đấy. Tuy nhiên họ thất bại trong việc tìm nhân viên cho các công trình.  Trong 2,000 người có bằng IT (Information Technology) nộp đơn, chỉ có 90 người đạt đủ điểm khi lấy một bài thi căn bản. Tuy nhiên cuối cùng chỉ còn lại 40 người đủ trình độ Anh ngữ tối thiểu được tuyển dụng. Như đã nêu trên, phẩm chất giáo dục đại học đi đôi với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Khi các cơ sở đại học VN thất bại trong việc đào tạo một tầng lớp có khả năng tham gia và cạnh tranh vào cộng đồng quốc tế, tương lai cả một thế hệ con em chúng ta ở VN đi về đâu"
Ghi Chú: Gs Hoàng Tụy được coi như một nhà khoa học thành đạt và nổi tiếng nhất của VN trong thế kỷ 20.  Là một nhà toán học, ông đã có nhiều công trình nghiên cứu được ấn hành trên các tập san khoa học quốc tế và đã có một định lý toán học mang tên ông.  Hiện tại, ông là một trong những tiếng nói đáng tin cậy đang lên tiếng phê bình sắc bén về tình trạng suy thoái của nền giáo dục đại học và khoa học tại VN. Các bài viết của ông được đăng trong báo Tia Sáng của Bộ Khoa Học và Công Nghệ VN.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.