Hôm nay,  

Đảng Dân Chủ Kêu Gọi CSVN Bênh Tây Tạng, Lên Án CSTQ

12/04/200800:00:00(Xem: 6206)

Đảng Dân Chủ XXI vừa đưa ra bản tuyên bố đề ngày 10-4-2008, gửi từ Sài Gòn, ký tên cụ Trần Khuê, Tổng thư ký đảng này, kêu gọi thế giới lên án  Trung Quốc đàn áp người Tây Tạng, và đòi nhà nứơc CSVN lên án Trung Quốc về âm mưu bành trướng cụ thể là đã chiếm đaỏ Trường Sa và Hoàng Sa.

Bản văn trích như sau:

“TUYÊN BỐ CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ XXI về sự kiện Tây Tạng và Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008

Kính thưa toàn thể Đồng bào,

Cuộc đua tài thể thao toàn hành tinh tại Bắc Kinh năm nay được mọi người háo hức chờ đón vừa mới khai triển với cuộc rước đuốc hoành tráng đã trở thành cuộc biểu dương tinh thần đoàn kết huynh đệ của cả loài người lên án nhà cầm quyền Trung Quốc đàn áp dân chúng Tây Tạng tay không xuống đường đòi quyền sống.

Ngọn đuốc Thế Vận Hội đáng lẽ được rước đón trong tinh thần thể thao hoà bình và hữu nghị đã bị ngăn cản và bị sỉ vả khắp nơi. Hình ảnh nước chủ nhà Thế Vận Hội 2008 trong con mắt nhân dân toàn thế giới là hình ảnh ô nhục. Nhiều nguyên thủ quốc gia đã biểu thị sự bất bình với hành động của nhà cầm quyền Trung Quốc bằng những tuyên bố không tham dự lễ khai mạc Thế Vận Hội. Trên các mặt báo tràn ngập các hàng tít lớn thể hiện nỗi giận dữ bùng cháy của công luận. Trên mạng internet toàn cầu hàng triệu người đã ký tên vào nhiều kiến nghị tẩy chay Thế Vận Hội Bắc Kinh. Khẩu hiệu "Một Thế giới, Một Ước mơ" do Uỷ ban Thế Vận Hội Trung Quốc đưa ra đã bị những người phản đối sửa thành "Một Thế giới, Một Ước mơ – Tự do cho Tây Tạng". Nhân dịp này, người ta nhắc đến một Thế Vận Hội ô nhục tương tự là Thế Vận Hội Berlin do chế độ Quốc xã của Hitler tổ chức năm 1936.  

Mừng thay, lương tâm nhân loại vẫn tỉnh thức. 

Hình thành từ thế kỷ thứ VII trên một vùng đất rộng lớn, được mệnh danh là "mái nhà của thế giới", quốc gia Tây Tạng đã bị nhiều triều đại Trung Quốc phong kiến thôn tính từ thế kỷ thứ XIII cho đến đầu thế kỷ XX. Đây là cái cớ cho nhà cầm quyền Trung Quốc hiện nay coi Tây Tạng là hiển nhiên thuộc Trung Quốc, sau cuộc đánh chiếm cuối cùng năm 1949. Vì không muốn chiến tranh, vị lãnh tụ tinh thần của Tây Tạng là đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi dân Tây Tạng sống hòa bình với người Trung Quốc trong tinh thần một hiệp ước bị cưỡng ép ký kết năm 1951. Tuy nhiên, chính quyền trung ương không ngừng tiến hành những biện pháp nhằm xoá bỏ sự tồn tại của quốc gia Tây Tạng: ồ ạt đưa người Hán vào sinh sống trên đất Tây Tạng, cấm dùng ngôn ngữ Tây Tạng trong giao tiếp công vụ, coi tiếng Hán là ngôn ngữ chính thức duy nhất, hạn chế sinh đẻ đối với người Tây Tạng vốn không có số sinh cao, cấm cản những nghi lễ truyền thống… Một cuộc "diệt chủng văn hoá" được tiến hành theo kế hoạch. Con giun xéo lắm cũng quằn, năm 1959, dân Tây Tạng ở phía đông bắt đầu nổi loạn, kéo theo nhiều vùng khác. Cuộc nổi dậy bị đàn áp tàn bạo, 87.000 dân Tây Tạng bị tàn sát. Lãnh tụ tinh thần của nhân dân Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma chạy thoát qua Ấn Độ với 80.000 dân đi theo. Một chính phủ dân chủ lưu vong được thành lập, có trụ sở tại thành phố nhỏ Dharamsala dưới chân rặng Himalaya. Người Tây Tạng lưu vong đã vận động được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đưa ra Nghị Quyết số 1273 công nhận quyền tự quyết của Tây Tạng. Nghị quyết này bị Trung Quốc bác bỏ, và sau đó Trung Quốc cũng bác bỏ luôn Nghị Quyết số 2079 tái xác nhận những điều khoản được ghi trong Nghị Quyết số 1273. Năm 1992, vấn đề quyền tự quyết của Tây Tạng lại được đặt ra trước Tòa Án Thường Trực tại Strasbourg. Kết luận của toà: người dân Tây Tạng có đủ tiêu chuẩn để có quyền tự quyết định về số phận của mình, sự hiện diện của chính quyền Trung Quốc trên đất Tây Tạng phải được coi là hình thức đô hộ. Ngày 10.1.1993, Hội Nghị Các Luật Gia Trên Thế Giới họp tại London đã đưa ra một bản tuyên ngôn rằng theo luật quốc tế, dân chúng Tây Tạng có quyền tự quyết, quyền này tùy thuộc vào người Tây Tạng và không một quốc gia nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc, có quyền phủ nhận.

Sau đó là sự im lặng kéo dài từ phía các quốc gia phương Tây và Mỹ, không trừ cả các nước láng giềng như Ấn Độ và Nêpal trước đây từng ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của Tây Tạng, nhân danh lợi nhuận trong sự giao thương với quốc gia có trên một tỉ khách hàng. Đường lối đối ngoại của các quốc gia không phải lúc nào cũng thể hiện ý chí và tâm cảm của xã hội công dân trong các quốc gia ấy. Nhân dân toàn thế giới không ngừng ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Tây Tạng.  

Lịch sử sự hình thành và tàn lụi của nhiều quốc gia trên thế giới là một lịch sử phức tạp. Không phải bất cứ cuộc đấu tranh dưới tiêu chí giành độc lập dân tộc nào cũng là chính danh và có thể giành được thắng lợi. Có nhiều quốc gia đã mất đi hoàn toàn sau sự hội nhập và hoà tan trong biên giới những quốc gia khác. Ở những quốc gia ấy khẩu hiệu đấu tranh cho dân tộc nhiều khi chỉ là khẩu hiệu dùng để núp bóng của những phe phái tranh giành quyền lực. Đó không phải là trường hợp của Tây Tạng.

Việt Nam là một trong những quốc gia từng bị chiếm đóng lâu dài, hằng nghìn năm lệ thuộc phương Bắc và hằng trăm năm lệ thuộc phương Tây,  nhưng rốt cuộc vẫn giữ được nền độc lập. Cuộc đấu tranh kiên trì và dũng cảm giành độc lập và bảo toàn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam xứng đáng là tấm gương cho nhiều dân tộc bị trị.

Trước hai sự kiện: nhân dân Tây Tạng đang bị đàn áp dã man và Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008 sắp đến, Đảng Dân chủ XXI long trọng tuyên bố lập trường của mình như sau:

1. Lên án sự đàn áp dã man của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với nhân dân Tây Tạng. Đòi nhà cầm quyền Trung Quốc phải tôn trọng nhân quyền ở Tây Tạng cũng như ngay trên đất đai của mình, chấm dứt trấn áp và thả ngay những người bất đồng chính kiến hiện đang bị giam giữ.

2. Ủng hộ nhân dân Tây Tạng trong cuộc đấu tranh chính nghĩa. Ủng hộ đòi hỏi ôn hoà và khiêm tốn cho Tây Tạng được tự trị. Nhà cầm quyền Trung Quốc phải nói chuyện với đức Đạt Lai Lạt Ma để giải quyết cuộc xung đột hiện nay ở Tây Tạng.

3.  Hoan hô những nguyên thủ quốc gia đã lên tiếng phản đối Trung Quốc đàn áp những người Tây Tạng ôn hoà đòi quyền sống và quyền tự trị bằng cách không tham dự lễ khai mạc Thế Vận Hội. Hoan hô Tổ chức Ký Giả Không Biên Giới và những Vận động viên từ chối cầm đuốc Thế Vận Hội đã biểu thị sự bất bình với một Thế Vận Hội không có tinh thần hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Không tẩy chay Thế Vận Hội, nhưng không cho phép biến Thế Vận Hội thành cơ hội phô trương thanh thế cho thế lực bành trướng bá quyền.

4. Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam không do dự lên án Trung Quốc trong sự cai trị Tây Tạng và âm mưu bành trướng lãnh thổ xuống Đông Nam Á, cụ thể trong sự trắng trợn sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc. Cũng như đối với trường hợp Tây Tạng, nhân dân toàn thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo toàn lãnh thổ của mình...”

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.