Hôm nay,  

Châu Á Phục Hồi Nhanh

11/4/200900:00:00(View: 7046)

Châu Á Phục Hồi Nhanh

Nguyễn Xuân Nghĩa & Mai Vân RFI

Nhưng chỉ bền vững nếu cải cách và chuyển hướng...
Ngày 29/10/2009, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF công bố dự báo về kinh tế Châu Á Thái Bình Dương với một số nhận định tương đối lạc quan. Tăng trưởng kinh tế khu vực sẽ là 5,75% trong năm 2010, so với 2,75% dự kiến năm nay. Trong lúc đó thì tăng trưởng các quốc gia nhóm G7 chỉ là 1,25% cho năm tới.
Nếu trước đây, các nền kinh tế Châu Á bị tác hại nặng nề, có khi nặng nề hơn những nước ở ngay trung tâm khủng hoảng, thì giờ đây Châu Á dẫn đầu thế giới ra khỏi khủng hoảng. Năm nay, Trung Quốc tăng trưởng khoảng 8,5%, còn năm tới đây, theo dự báo của IMF sẽ lên 9%. Nhật Bản cũng sẽ tăng trưởng trở lại vào năm 2010, tuy ở mực khiêm tốn, 1,75%, trong khi năm nay kinh tế thụt lùi xuống mức - 5,5%.
Các nước ASEAN, như Thái Lan, Malaysia, Philippines, mà kinh tế cũng thụt lùi trong năm 2009, cũng sẽ tăng trưởng trở lại, 2,5% đối với Malaysia, 3,5% cho Phillipines và Thái Lan 3,7%. Riêng Indonesia và Việt Nam có tăng trưởng cao hơn : từ 4,6 % năm 2009, Việt Nam sẽ đạt 5,3% vào năm 2010. Indonesia, từ 4% năm nay, sẽ nhích lên 4,8%.
Trong bản cập nhật về kinh tế Đông Á, công bố ngày 04/11, Ngân hàng thế giới cũng nêu bật đà phục hồi của Á Châu.
Về nguyên nhân giúp các nước Châu Á phục hồi nhanh như thế, IMF nêu lên bối cảnh thương mại và tài chính toàn cầu hoạt động bình thường trở lại, nhưng định chế này cũng khen ngợi các quốc gia Châu Á đã biết nhanh chóng đưa ra các đối sách hữu hiệu trên mặt tiền tệ, tài chính, kích thích kinh tế. Nhìn chung trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn chưa sáng sủa, trường hợp kinh tế Châu Á khả quan hơn là một hiện tượng đáng khích lệ.
Tuy nhiên bên cạnh những đánh giá tích cực trên, Quỹ tiền tệ Quốc tế cũng đưa ra những lời khuyến cáo rất đáng quan tâm. Đó là khu vực này vẫn phải cảnh giác về chính sách kích thích kinh tế, cần triệt để cải cách về cơ chế, chuyển hướng kinh tế, thích nghi với tình hình mới của thế giới, với nhu cầu của các thị trường xuất khẩu truyền thống của họ (Hoa Kỳ, Châu Âu…) sụt giảm. Nói cách khác, châu Á phải chú trọng hơn đến thị trường nội điạ.
Có làm như thế thì mới hy vọng duy trì được một mức tăng trưởng cao trong lâu dài trong khung cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều thay đổi. Theo IMF, đà tăng trưởng tương đối khả quan hiện nay vẫn còn bấp bênh.
Trong phần trả lời RFI, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghiã phân tích cụ thể hơn về bài toán nói trên : về những nguyên nhân giúp các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam, vươn lên, cũng như những khó khăn phải vượt qua để duy trì được đà tăng trưởng, như khuyến cáo của IMF. Ngoài ra, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghiã, cũng đánh giá là nếu không kể đến Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, tình hình kinh tế những nước còn lại của Châu Á không khả quan như người ta nghĩ..
Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn (03/11/2009):
RFI: Quỹ Tiền tệ Quốc tế công bố dự báo về kinh tế châu Á Thái Bình Dương với nhiều thẩm định lạc quan hơn về triển vọng cho năm tới, cụ thể là sẽ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 5,75% vào năm tới so với vỏn vẹn có 2,75% trong năm nay. Cảm tưởng chung là dường như trong các khu vực kinh tế toàn cầu, Á châu đang bật dậy sớm hơn cả. Xin đề nghị anh phân tích cho những yếu tố nào đã khiến Á châu hồi phục mạnh hơn nơi khác "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nói về bối cảnh trước rồi mình lần lượt xoáy vào từng khía cạnh đặc thù. Á châu là khu vực rộng lớn và đa diện với rất nhiều khác biệt. Nó gồm có cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới là Nhật, ở trong nhóm thất hùng đã công nghiệp hóa là khối G-7 nhưng hiện chưa ra khỏi suy trầm.
Khi các định chế quốc tế nói tới kinh tế Á châu, ta nên hiểu là họ thường không kể Nhật Bản. Á châu cũng có Ấn Độ với hơn một tỷ dân và kinh tế tương đối ít bị chấn động, nhưng không thuộc Đông Á. Khu vực Đông Á thì có các nền kinh tế "tân hưng" mới nổi, như Nam Hàn, Đài Loan, có thể kể cả đại gia Trung Quốc và nhiều nước Đông Nam Á như Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan.
- Sau cùng, Á châu cũng có các nền kinh tế gọi là "có lợi tức thấp", như Việt Nam, Lào, Cam Bốt, Bangladesh, Mông Cổ, v.v... Vì vậy, khi nói về Á châu, ta có khá nhiều trường hợp cá biệt nhưng trong chương trình này, có lẽ mình tập trung vào các nước tân hưng vì có sức mạnh kinh tế đáng kể, và sẽ chú ý riêng vào trường hợp Việt Nam.
- Thứ hai, trước khi Hoa Kỳ bị khủng hoảng tài chính năm ngoái và gây ra trận suy thoái toàn cầu, trước tiên là trong nhóm G-7 đó thì kinh tế Mỹ đã bị suy trầm từ cuối năm 2008 sau bảy năm tăng trưởng liên tục. Khi cơn chấn động manh nha từ đầu năm 2008, người ta đã tưởng là kinh tế Á châu, đặc biệt là các nước tân hưng Đông Á, đã tách khỏi ba đầu máy tăng trưởng gọi là nhóm G-3 - là Mỹ, Âu Châu và Nhật Bản - vì đã có nội lực riêng sau mấy thập niên phát triển. Chuyện ấy không xảy ra, Á châu vẫn bị kéo vào suy thoái và chìm xuống đáy, nhưng lại bật lên sớm nhất. Các định chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ hay Ngân hàng Thế giới đang nói về sức bật đó.
RFI: Thưa anh, những động lực nào đã tạo ra sức bật đó" Nhờ chính sách cấp cứu kinh tế hay nhờ họ buôn bán với nhau nhiều hơn là với các nước đã công nghiệp hoá, như ba đầu máy G-3 hay nhóm G-7 của Tây phương "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Một trong những động lực chính là bài học của vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997-1998 khiến các nước trong khu vực đều biết sợ nên cố xây dựng nền móng vĩ mô lành mạnh hơn, cụ thể là quân bình công chi thu trong ngân sách quốc gia và một khối dự trữ ngoại tệ tương đối khả quan. Nhờ nền móng ấy, khi nạn suy thoái bùng nổ, họ có thể tung ra nhiều biện pháp cấp cứu mạnh bạo về ngân sách như tăng chi để kích thích sản xuất, và về tiền tệ như hạ lãi suất và bơm thêm tín dụng vào kinh tế. Những biện pháp ấy đã phần nào bù đắp mức thất thâu khi các thị trường xuất khẩu vào khối G-3 đều co cụm.
- Khi khủng hoảng tài chính bùng nổ tại Hoa Kỳ rồi lan qua Âu Châu thì tư bản bị đông lạnh, tín dụng bị ách tắc nên các nước có tiền này bèn triệt thoái tư bản về để cấp cứu ở nhà khiến đầu tư vào các nước Đông Á cũng giảm mạnh. Nhưng nhờ các nước Đông Á đã gom sẵn một lượng dự trữ ngoại tệ dồi dào hơn sau vụ khủng hoảng 10 năm trước nên họ vẫn còn ngoại tệ để tung vào thị trường hầu tránh một vụ khủng hoảng ngoại hối vì xuất cảng với đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đều giảm. Đó là tình hình chung, nhưng hoàn cảnh mỗi nước lại có những dị biệt.


RFI: Khi xuất cảng vào các nước công nghiệp hoá đều giảm thì các nước Đông Á đã có thể bán hàng cho nhau mà bù đắp vào sự thiếu hụt ấy hay không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Hiện tượng ấy có nhưng không đồng bộ vì hoàn cảnh khác biệt của từng nước. Trước hết, cả Quỹ Tiền tệ Quốc tế lẫn Ngân hàng Thế giới đều nhận định là Trung Quốc đã ráo riết kích cầu và tìm lại mức tăng trưởng cao hơn cả nên trở thành một đầu máy cho các nền kinh tế kia. Thật ra hai định chế này đều có thói quen đánh giá kinh tế Trung Quốc một cách lạc quan - mà tôi thiển nghĩ là thái quá, nhất là trường hợp của Ngân hàng Thế giới.
- Các nước xuất cảng khoáng sản hay sản phẩm đệ nhất đẳng như nguyên nhiên liệu, thì quả là có bán được hàng cho Trung Quốc. Nhưng đa số các nước này đều thuộc thành phần có lợi tức thấp nên không phải là nhờ vậy mà kinh tế Đông Á nói chung đã đụng đáy và phục hồi sớm hơn cả. Các nước bán hàng chế biến thì chưa thể trông cậy vào việc bán hàng cho Trung Quốc mà ra khỏi suy thoái. Họ tìm sức bật ở nơi khác.
- Nói chung thì ngoài Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Hàn, tình hình kinh tế Á châu chưa khả quan như người ta nghĩ. Chẳng hạn như nếu không kể đà tăng trưởng hơn 8% của Trung Quốc thì bình quân còn lại của các nước Đông Á khó có thể đạt 5,7 hay 5,8% như Quỹ Tiền tệ dự báo, mà chỉ ở khoảng 2-3% thôi và còn thấp hơn các nước Trung Đông hay Nam Á, trong đó có Ấn Độ. Một số nước nghèo, trong đó có Việt Nam với tốc độ tăng trưởng 5%, thật ra chưa ra khỏi cảnh ngộ ngặt nghèo. Vì vậy tôi mới phải dài dòng nói về những khác biệt trong khố kinh tế Á Châu.
RFI: Thưa anh, báo cáo của Quỹ Tiền tệ có nhấn mạnh là đà tăng trưởng tương đối khả quan này thật ra vẫn còn bấp bênh, nghĩa là không đều, và nhất là thiếu bền vững, tức là không kéo dài. Nguyên nhân là vì sao" Và muốn có đà tăng trưởng bền vững thì các nước này phải làm gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nguyên nhân về thời cơ hay chu kỳ -là trong thời gian ngắn hạn một hai năm - đầu máy kinh tế của nhóm G-7 vẫn còn yếu với tăng trưởng bình quân chỉ ở khoảng 1,25% một năm vào năm tới. Lý do là sau nạn suy thoái vừa qua, giới tiêu thụ Âu Mỹ bị cháy túi nên tiêu xài ít đi và kinh tế cũng nhập cảng ít đi. Vì vậy sẽ không giúp gì nhiều cho các nước xuất cảng tại châu Á, ít ra trong một hai năm.
- Nguyên nhân thứ hai thuộc về hoàn cảnh nội tại của các nền kinh tế Á châu. Đó là chưa có trớn tăng trưởng đủ mạnh để khỏi cần tới lực đẩy của chính quyền, tức là nếu các biện pháp kích cầu mà chấm dứt là kinh tế sẽ lại bị suy trầm, đình trệ. Cũng vì vậy, Quỹ Tiền tệ Quốc tế mới khuyến cáo các chính quyền là phải cảnh giác để nếu cần và nếu có thể thì tiếp tục duy trì biện pháp kích thích kinh tế, nghĩa là vẫn phải tống ga, nếu không, cỗ xe sẽ dừng.
- Nguyên nhân thứ ba thuộc về cơ chế và có ý nghĩa trường kỳ, là các nền kinh tế Á châu phải tìm ra lực đẩy nội tại từ khu vực tư doanh và khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa thay vì mong chờ bán hàng cho Mỹ cho Âu hoặc nhờ cậy vào chính sách kích cầu của nhà nước. Đây là thử thách lớn nhất cho châu Á vì phải quan niệm lại toàn bộ chiến lược phát triển và cơ chế sản xuất. Không riêng gì các định chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ hay Ngân hàng Thế giới, mà nhiều quốc gia trong nhóm G-20 là 20 nền kinh tế mạnh nhất thế giới đã nói đến yêu cầu "quân bình hoá toàn cầu". Nghĩa là các nước giàu, nhất là Hoa Kỳ, cần tiêu thụ ít đi và tiết kiệm nhiều hơn trong khi các nước Đông Á nên tiêu thụ nhiều hơn để mở rộng thị trường nội địa lấy thị trường này làm đầu máy tăng trưởng hơn là thị trường xuất cảng.
RFI: Tức là sau nhiều thập niên thắt lưng buộc bụng để xuất cảng với giá thật rẻ, nay các nước Đông Á được khuyến cáo là nên cởi hầu bao và tiêu xài nhiều hơn hầu thị trường tiêu thụ nội địa sẽ thúc đẩy sản xuất "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy và đấy mới là bài toán không dễ giải quyết vì phải chuyển hóa nền kinh tế từ chiến lược hướng ngoại về hướng nội. Nghĩa là đầu tư mạnh hơn vào hệ thống giao thông và phân phối nội địa, đầu tư tinh tế hơn vào giáo dục và tay nghề, khai thông ách tắc luât lệ để tư doanh nội địa dễ tham gia sản xuất, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội và trợ giúp y tế để người dân khỏi e sợ bất trắc mà duy trì mức tiết kiệm quá cao. Và trước hết, dừng duy trì tỷ giá đồng bạc nội địa quá thấp để tìm lợi thế cạnh tranh khi xuất cảng với giá rẻ mà nên điều chỉnh hối suất này cho cao hơn để khỏi gây thiệt thòi lợi tức của người dân.
RFI: Câu hỏi cuối thưa anh, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới nhận định ra sao về trường hợp Việt Nam "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Họ ngợi khen Việt Nam đã quyết liệt ban hành chính sách kích thích kinh tế qua tăng chi, giảm thuế và nhất là bơm tín dụng, và còn cho rằng ngân khoản kích cầu thực tế có lẽ cao hơn con số chính thức rất nhiều và nhờ vậy mà kinh tế đã tăng trưởng khả quan, bình quân có thể là 5,5% cho cả năm nay.
- Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo Việt Nam bốn chuyện nên thận trọng. Thứ nhất, sẽ bị bội chi ngân sách quá cao do số thu thì giảm vì sinh hoạt kinh tế bị đình đọng mà số chi lại tăng quá mạnh vì biện pháp kích cầu. Thứ hai, lượng tín dụng quá lớn bơm vào kinh tế có thể thổi lên bong bóng đầu cơ mà không rót vào đúng nơi cần cứu là tiểu doanh nghiệp tư nhân, lại còn làm hệ thống ngân hàng ôm vào một gánh nợ xấu khiến nhiều cơ sở tài trợ mất lời và bị rủi ro. Thứ ba, nguồn thu ngoại tệ suy giảm vì nhập siêu quá lớn, đầu tư nước ngoài và tiền gửi của thân nhân ở ngoài về đều sụt mạnh nên Việt Nam sẽ bị khó khăn về ngoại hối, dự trữ ngoại tệ chỉ còn hơn 16 tỷ vào tháng Tám vừa qua. Sau cùng, tình trạng nghèo đói đã gia tăng vì sinh hoạt kinh té đình trệ mà mạng lưới an sinh và cứu trợ xã hội vẫn còn quá thô sơ.
- Tổng kết lại, tôi nghĩ rằng bội chi ngân sách tới hơn 9% tổng sản lượng nội địa sẽ thu hẹp khả năng tăng chi cho yêu cầu an sinh xã hội trong khi tín dụng cấp phát quá nhiều lại không cứu đúng đối tượng cần cứu và khi nguồn tín dụng này được giảm thì nhiều trái bóng đầu cơ sẽ xì hoặc bể, thí dụ như trên thị trường chứng khoán vào cuối năm nay và bất động sản vào năm tới. Trong khi đó, tín dụng ào ạt vẫn có thể gây ra hậu quả lạm phát từ cuối năm nay trở đi.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
Người tị nạn đã không còn được chào đón tại Hoa Kỳ kể từ ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. Ngay trong ngày nhậm chức 20 tháng 1 năm 2025, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp đình chỉ Chương trình Tiếp nhận Người tị nạn của Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program, USRAP) trong vòng 90 ngày. Dù vào tháng 2 năm 2025, tòa án liên bang đã ra phán quyết yêu cầu khôi phục chương trình tái định cư người tị nạn, chính quyền Trump vẫn khẳng định rằng không thể thực hiện điều đó ngay lập tức, do hệ thống tiếp nhận người tị nạn đã bị giải thể gần như toàn bộ.
Trong bài diễn văn dài 90 phút trước Quốc hội Hoa Kỳ, Donald Trump nhắc lại tham vọng “giành lấy” Greenland “bằng cách này hay cách khác.” Trump tuyên bố rằng Greenland có ý nghĩa “sống còn đối với an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ. Dù nhấn mạnh rằng chính phủ của mình “hoàn toàn ủng hộ quyền tự quyết của Greenland,” ông vẫn không quên mời gọi “nếu các bạn đổi ý, chúng tôi sẵn sàng chào đón các bạn gia nhập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp. Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng. Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.