Hôm nay,  

Châu Á Phục Hồi Nhanh

04/11/200900:00:00(Xem: 6485)

Châu Á Phục Hồi Nhanh

Nguyễn Xuân Nghĩa & Mai Vân RFI

Nhưng chỉ bền vững nếu cải cách và chuyển hướng...
Ngày 29/10/2009, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF công bố dự báo về kinh tế Châu Á Thái Bình Dương với một số nhận định tương đối lạc quan. Tăng trưởng kinh tế khu vực sẽ là 5,75% trong năm 2010, so với 2,75% dự kiến năm nay. Trong lúc đó thì tăng trưởng các quốc gia nhóm G7 chỉ là 1,25% cho năm tới.
Nếu trước đây, các nền kinh tế Châu Á bị tác hại nặng nề, có khi nặng nề hơn những nước ở ngay trung tâm khủng hoảng, thì giờ đây Châu Á dẫn đầu thế giới ra khỏi khủng hoảng. Năm nay, Trung Quốc tăng trưởng khoảng 8,5%, còn năm tới đây, theo dự báo của IMF sẽ lên 9%. Nhật Bản cũng sẽ tăng trưởng trở lại vào năm 2010, tuy ở mực khiêm tốn, 1,75%, trong khi năm nay kinh tế thụt lùi xuống mức - 5,5%.
Các nước ASEAN, như Thái Lan, Malaysia, Philippines, mà kinh tế cũng thụt lùi trong năm 2009, cũng sẽ tăng trưởng trở lại, 2,5% đối với Malaysia, 3,5% cho Phillipines và Thái Lan 3,7%. Riêng Indonesia và Việt Nam có tăng trưởng cao hơn : từ 4,6 % năm 2009, Việt Nam sẽ đạt 5,3% vào năm 2010. Indonesia, từ 4% năm nay, sẽ nhích lên 4,8%.
Trong bản cập nhật về kinh tế Đông Á, công bố ngày 04/11, Ngân hàng thế giới cũng nêu bật đà phục hồi của Á Châu.
Về nguyên nhân giúp các nước Châu Á phục hồi nhanh như thế, IMF nêu lên bối cảnh thương mại và tài chính toàn cầu hoạt động bình thường trở lại, nhưng định chế này cũng khen ngợi các quốc gia Châu Á đã biết nhanh chóng đưa ra các đối sách hữu hiệu trên mặt tiền tệ, tài chính, kích thích kinh tế. Nhìn chung trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn chưa sáng sủa, trường hợp kinh tế Châu Á khả quan hơn là một hiện tượng đáng khích lệ.
Tuy nhiên bên cạnh những đánh giá tích cực trên, Quỹ tiền tệ Quốc tế cũng đưa ra những lời khuyến cáo rất đáng quan tâm. Đó là khu vực này vẫn phải cảnh giác về chính sách kích thích kinh tế, cần triệt để cải cách về cơ chế, chuyển hướng kinh tế, thích nghi với tình hình mới của thế giới, với nhu cầu của các thị trường xuất khẩu truyền thống của họ (Hoa Kỳ, Châu Âu…) sụt giảm. Nói cách khác, châu Á phải chú trọng hơn đến thị trường nội điạ.
Có làm như thế thì mới hy vọng duy trì được một mức tăng trưởng cao trong lâu dài trong khung cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều thay đổi. Theo IMF, đà tăng trưởng tương đối khả quan hiện nay vẫn còn bấp bênh.
Trong phần trả lời RFI, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghiã phân tích cụ thể hơn về bài toán nói trên : về những nguyên nhân giúp các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam, vươn lên, cũng như những khó khăn phải vượt qua để duy trì được đà tăng trưởng, như khuyến cáo của IMF. Ngoài ra, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghiã, cũng đánh giá là nếu không kể đến Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, tình hình kinh tế những nước còn lại của Châu Á không khả quan như người ta nghĩ..
Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn (03/11/2009):
RFI: Quỹ Tiền tệ Quốc tế công bố dự báo về kinh tế châu Á Thái Bình Dương với nhiều thẩm định lạc quan hơn về triển vọng cho năm tới, cụ thể là sẽ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 5,75% vào năm tới so với vỏn vẹn có 2,75% trong năm nay. Cảm tưởng chung là dường như trong các khu vực kinh tế toàn cầu, Á châu đang bật dậy sớm hơn cả. Xin đề nghị anh phân tích cho những yếu tố nào đã khiến Á châu hồi phục mạnh hơn nơi khác "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nói về bối cảnh trước rồi mình lần lượt xoáy vào từng khía cạnh đặc thù. Á châu là khu vực rộng lớn và đa diện với rất nhiều khác biệt. Nó gồm có cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới là Nhật, ở trong nhóm thất hùng đã công nghiệp hóa là khối G-7 nhưng hiện chưa ra khỏi suy trầm.
Khi các định chế quốc tế nói tới kinh tế Á châu, ta nên hiểu là họ thường không kể Nhật Bản. Á châu cũng có Ấn Độ với hơn một tỷ dân và kinh tế tương đối ít bị chấn động, nhưng không thuộc Đông Á. Khu vực Đông Á thì có các nền kinh tế "tân hưng" mới nổi, như Nam Hàn, Đài Loan, có thể kể cả đại gia Trung Quốc và nhiều nước Đông Nam Á như Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan.
- Sau cùng, Á châu cũng có các nền kinh tế gọi là "có lợi tức thấp", như Việt Nam, Lào, Cam Bốt, Bangladesh, Mông Cổ, v.v... Vì vậy, khi nói về Á châu, ta có khá nhiều trường hợp cá biệt nhưng trong chương trình này, có lẽ mình tập trung vào các nước tân hưng vì có sức mạnh kinh tế đáng kể, và sẽ chú ý riêng vào trường hợp Việt Nam.
- Thứ hai, trước khi Hoa Kỳ bị khủng hoảng tài chính năm ngoái và gây ra trận suy thoái toàn cầu, trước tiên là trong nhóm G-7 đó thì kinh tế Mỹ đã bị suy trầm từ cuối năm 2008 sau bảy năm tăng trưởng liên tục. Khi cơn chấn động manh nha từ đầu năm 2008, người ta đã tưởng là kinh tế Á châu, đặc biệt là các nước tân hưng Đông Á, đã tách khỏi ba đầu máy tăng trưởng gọi là nhóm G-3 - là Mỹ, Âu Châu và Nhật Bản - vì đã có nội lực riêng sau mấy thập niên phát triển. Chuyện ấy không xảy ra, Á châu vẫn bị kéo vào suy thoái và chìm xuống đáy, nhưng lại bật lên sớm nhất. Các định chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ hay Ngân hàng Thế giới đang nói về sức bật đó.
RFI: Thưa anh, những động lực nào đã tạo ra sức bật đó" Nhờ chính sách cấp cứu kinh tế hay nhờ họ buôn bán với nhau nhiều hơn là với các nước đã công nghiệp hoá, như ba đầu máy G-3 hay nhóm G-7 của Tây phương "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Một trong những động lực chính là bài học của vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997-1998 khiến các nước trong khu vực đều biết sợ nên cố xây dựng nền móng vĩ mô lành mạnh hơn, cụ thể là quân bình công chi thu trong ngân sách quốc gia và một khối dự trữ ngoại tệ tương đối khả quan. Nhờ nền móng ấy, khi nạn suy thoái bùng nổ, họ có thể tung ra nhiều biện pháp cấp cứu mạnh bạo về ngân sách như tăng chi để kích thích sản xuất, và về tiền tệ như hạ lãi suất và bơm thêm tín dụng vào kinh tế. Những biện pháp ấy đã phần nào bù đắp mức thất thâu khi các thị trường xuất khẩu vào khối G-3 đều co cụm.
- Khi khủng hoảng tài chính bùng nổ tại Hoa Kỳ rồi lan qua Âu Châu thì tư bản bị đông lạnh, tín dụng bị ách tắc nên các nước có tiền này bèn triệt thoái tư bản về để cấp cứu ở nhà khiến đầu tư vào các nước Đông Á cũng giảm mạnh. Nhưng nhờ các nước Đông Á đã gom sẵn một lượng dự trữ ngoại tệ dồi dào hơn sau vụ khủng hoảng 10 năm trước nên họ vẫn còn ngoại tệ để tung vào thị trường hầu tránh một vụ khủng hoảng ngoại hối vì xuất cảng với đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đều giảm. Đó là tình hình chung, nhưng hoàn cảnh mỗi nước lại có những dị biệt.


RFI: Khi xuất cảng vào các nước công nghiệp hoá đều giảm thì các nước Đông Á đã có thể bán hàng cho nhau mà bù đắp vào sự thiếu hụt ấy hay không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Hiện tượng ấy có nhưng không đồng bộ vì hoàn cảnh khác biệt của từng nước. Trước hết, cả Quỹ Tiền tệ Quốc tế lẫn Ngân hàng Thế giới đều nhận định là Trung Quốc đã ráo riết kích cầu và tìm lại mức tăng trưởng cao hơn cả nên trở thành một đầu máy cho các nền kinh tế kia. Thật ra hai định chế này đều có thói quen đánh giá kinh tế Trung Quốc một cách lạc quan - mà tôi thiển nghĩ là thái quá, nhất là trường hợp của Ngân hàng Thế giới.
- Các nước xuất cảng khoáng sản hay sản phẩm đệ nhất đẳng như nguyên nhiên liệu, thì quả là có bán được hàng cho Trung Quốc. Nhưng đa số các nước này đều thuộc thành phần có lợi tức thấp nên không phải là nhờ vậy mà kinh tế Đông Á nói chung đã đụng đáy và phục hồi sớm hơn cả. Các nước bán hàng chế biến thì chưa thể trông cậy vào việc bán hàng cho Trung Quốc mà ra khỏi suy thoái. Họ tìm sức bật ở nơi khác.
- Nói chung thì ngoài Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Hàn, tình hình kinh tế Á châu chưa khả quan như người ta nghĩ. Chẳng hạn như nếu không kể đà tăng trưởng hơn 8% của Trung Quốc thì bình quân còn lại của các nước Đông Á khó có thể đạt 5,7 hay 5,8% như Quỹ Tiền tệ dự báo, mà chỉ ở khoảng 2-3% thôi và còn thấp hơn các nước Trung Đông hay Nam Á, trong đó có Ấn Độ. Một số nước nghèo, trong đó có Việt Nam với tốc độ tăng trưởng 5%, thật ra chưa ra khỏi cảnh ngộ ngặt nghèo. Vì vậy tôi mới phải dài dòng nói về những khác biệt trong khố kinh tế Á Châu.
RFI: Thưa anh, báo cáo của Quỹ Tiền tệ có nhấn mạnh là đà tăng trưởng tương đối khả quan này thật ra vẫn còn bấp bênh, nghĩa là không đều, và nhất là thiếu bền vững, tức là không kéo dài. Nguyên nhân là vì sao" Và muốn có đà tăng trưởng bền vững thì các nước này phải làm gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nguyên nhân về thời cơ hay chu kỳ -là trong thời gian ngắn hạn một hai năm - đầu máy kinh tế của nhóm G-7 vẫn còn yếu với tăng trưởng bình quân chỉ ở khoảng 1,25% một năm vào năm tới. Lý do là sau nạn suy thoái vừa qua, giới tiêu thụ Âu Mỹ bị cháy túi nên tiêu xài ít đi và kinh tế cũng nhập cảng ít đi. Vì vậy sẽ không giúp gì nhiều cho các nước xuất cảng tại châu Á, ít ra trong một hai năm.
- Nguyên nhân thứ hai thuộc về hoàn cảnh nội tại của các nền kinh tế Á châu. Đó là chưa có trớn tăng trưởng đủ mạnh để khỏi cần tới lực đẩy của chính quyền, tức là nếu các biện pháp kích cầu mà chấm dứt là kinh tế sẽ lại bị suy trầm, đình trệ. Cũng vì vậy, Quỹ Tiền tệ Quốc tế mới khuyến cáo các chính quyền là phải cảnh giác để nếu cần và nếu có thể thì tiếp tục duy trì biện pháp kích thích kinh tế, nghĩa là vẫn phải tống ga, nếu không, cỗ xe sẽ dừng.
- Nguyên nhân thứ ba thuộc về cơ chế và có ý nghĩa trường kỳ, là các nền kinh tế Á châu phải tìm ra lực đẩy nội tại từ khu vực tư doanh và khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa thay vì mong chờ bán hàng cho Mỹ cho Âu hoặc nhờ cậy vào chính sách kích cầu của nhà nước. Đây là thử thách lớn nhất cho châu Á vì phải quan niệm lại toàn bộ chiến lược phát triển và cơ chế sản xuất. Không riêng gì các định chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ hay Ngân hàng Thế giới, mà nhiều quốc gia trong nhóm G-20 là 20 nền kinh tế mạnh nhất thế giới đã nói đến yêu cầu "quân bình hoá toàn cầu". Nghĩa là các nước giàu, nhất là Hoa Kỳ, cần tiêu thụ ít đi và tiết kiệm nhiều hơn trong khi các nước Đông Á nên tiêu thụ nhiều hơn để mở rộng thị trường nội địa lấy thị trường này làm đầu máy tăng trưởng hơn là thị trường xuất cảng.
RFI: Tức là sau nhiều thập niên thắt lưng buộc bụng để xuất cảng với giá thật rẻ, nay các nước Đông Á được khuyến cáo là nên cởi hầu bao và tiêu xài nhiều hơn hầu thị trường tiêu thụ nội địa sẽ thúc đẩy sản xuất "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy và đấy mới là bài toán không dễ giải quyết vì phải chuyển hóa nền kinh tế từ chiến lược hướng ngoại về hướng nội. Nghĩa là đầu tư mạnh hơn vào hệ thống giao thông và phân phối nội địa, đầu tư tinh tế hơn vào giáo dục và tay nghề, khai thông ách tắc luât lệ để tư doanh nội địa dễ tham gia sản xuất, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội và trợ giúp y tế để người dân khỏi e sợ bất trắc mà duy trì mức tiết kiệm quá cao. Và trước hết, dừng duy trì tỷ giá đồng bạc nội địa quá thấp để tìm lợi thế cạnh tranh khi xuất cảng với giá rẻ mà nên điều chỉnh hối suất này cho cao hơn để khỏi gây thiệt thòi lợi tức của người dân.
RFI: Câu hỏi cuối thưa anh, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới nhận định ra sao về trường hợp Việt Nam "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Họ ngợi khen Việt Nam đã quyết liệt ban hành chính sách kích thích kinh tế qua tăng chi, giảm thuế và nhất là bơm tín dụng, và còn cho rằng ngân khoản kích cầu thực tế có lẽ cao hơn con số chính thức rất nhiều và nhờ vậy mà kinh tế đã tăng trưởng khả quan, bình quân có thể là 5,5% cho cả năm nay.
- Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo Việt Nam bốn chuyện nên thận trọng. Thứ nhất, sẽ bị bội chi ngân sách quá cao do số thu thì giảm vì sinh hoạt kinh tế bị đình đọng mà số chi lại tăng quá mạnh vì biện pháp kích cầu. Thứ hai, lượng tín dụng quá lớn bơm vào kinh tế có thể thổi lên bong bóng đầu cơ mà không rót vào đúng nơi cần cứu là tiểu doanh nghiệp tư nhân, lại còn làm hệ thống ngân hàng ôm vào một gánh nợ xấu khiến nhiều cơ sở tài trợ mất lời và bị rủi ro. Thứ ba, nguồn thu ngoại tệ suy giảm vì nhập siêu quá lớn, đầu tư nước ngoài và tiền gửi của thân nhân ở ngoài về đều sụt mạnh nên Việt Nam sẽ bị khó khăn về ngoại hối, dự trữ ngoại tệ chỉ còn hơn 16 tỷ vào tháng Tám vừa qua. Sau cùng, tình trạng nghèo đói đã gia tăng vì sinh hoạt kinh té đình trệ mà mạng lưới an sinh và cứu trợ xã hội vẫn còn quá thô sơ.
- Tổng kết lại, tôi nghĩ rằng bội chi ngân sách tới hơn 9% tổng sản lượng nội địa sẽ thu hẹp khả năng tăng chi cho yêu cầu an sinh xã hội trong khi tín dụng cấp phát quá nhiều lại không cứu đúng đối tượng cần cứu và khi nguồn tín dụng này được giảm thì nhiều trái bóng đầu cơ sẽ xì hoặc bể, thí dụ như trên thị trường chứng khoán vào cuối năm nay và bất động sản vào năm tới. Trong khi đó, tín dụng ào ạt vẫn có thể gây ra hậu quả lạm phát từ cuối năm nay trở đi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.